tag:blogger.com,1999:blog-58360031957638886122024-03-13T05:40:19.489-07:00Mánh Lê MungViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.comBlogger41125tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-40648233142925256132018-07-23T11:36:00.002-07:002018-07-23T11:36:36.314-07:00Stalingrad - Trận chiến định mệnh - Antony Beevor<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://4.bp.blogspot.com/-F__Qjrozea8/W1Yf_xz2txI/AAAAAAAAA8M/J0p1brs8ifg9GdWorUKbjol9Gha6BT2PACLcBGAs/s1600/IMG_8837.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1280" data-original-width="960" height="400" src="https://4.bp.blogspot.com/-F__Qjrozea8/W1Yf_xz2txI/AAAAAAAAA8M/J0p1brs8ifg9GdWorUKbjol9Gha6BT2PACLcBGAs/s400/IMG_8837.JPG" width="300" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<o:p><br /></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
Kể lại lịch sử bằng những câu chuyện cá nhân? Hay đặt góc
nhìn người trong cuộc để kể chuyện? Không có gì mới với người đọc yêu thích sách
quân sử. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Đương nhiên cần trân trọng nỗ lực của một số sử gia khi biến
tư liệu khô khan trở nên những câu chuyện dễ đọc. Tuy vậy, tôi đã quá ngán với
các thể loại làm mềm đến mức như tiểu thuyết hóa, ví dụ rõ nhất là Cornelius
Ryan trong The Longest Day, tới Stephen Ambrose trong Band of Brothers, rồi gần
đây nhất là Huế 1968 của Mark Bowen. Số ít người đọc với nhu cầu tìm hiểu về trận
đánh với phân tích sâu về chiến lược - chiến thuật chắc chắn không muốn mất quá
nhiều thời gian lướt qua những trang viết lan man toàn những câu chuyện cá nhân.
Cuốn Stalingrad của Antony Beevor không hẳn là đi vào lối mòn đó. Beevor cũng
là tác giả cuốn Ardennes 1944 (hay Battle of the Bulge) – một cuốn sách viết
không được hay lắm vì làm người đọc rối mù cả lên. Tuy nhiên Stalingrad – Trận
chiến định mệnh có vẻ cân bằng được phân tích chiến sự và chuyện kể cá nhân, vẫn
giữ được lớp xương sống diễn biến tuyến tính khi khai triển câu chuyện, vừa đủ
hấp dẫn cho dân ghiền vừa đảm bảo sức hút đại chúng.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Beevor là một trong số ít tác giả phương Tây tiếp cận với
nguồn tư liệu lưu trữ của Nga đầu tiên, ngay sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt.
Không rõ có phải vì lý do này, có cảm giác như Beevor xây dựng toàn bộ cuốn
sách dựa trên những tư liệu của Nga. Thông tin của phe Đức như làm nền cho câu
chuyện Sô viết. Người đọc có thể nhận thấy Beevor không đủ tư liệu để đánh giá
rõ những gì diễn ra ở bộ chỉ huy Hồng quân, nhưng ông dư thừa những câu chuyện chiến
hào. Đánh giá này không đúng nếu Beevor thực ra đã chọn ưu tiên khai thác tư liệu
để tìm hiểu tâm tư người lính, thay vì ưu tiên phân tích chiến lược. Dù sao đi
nữa, có thể nói Beevor ưu ái cho Hồng quân hơn quân Đức trong cuốn sách này.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Đọc về trận Stalingrad nói riêng, hay mặt trận phía Đông nói
chung, dễ thấy cuộc đối đầu Đức – Liên Sô chủ yếu là cuộc đối đầu không khoan
nhượng giữa hai gã độc tài quân sự: Hitler và Stalin. Nhưng nếu cả hai đều thích
áp đặt, từ đó dẫn đến những thất bại ghê hồn trên chiến trường, thì ít ra
Stalin vẫn là người chịu lắng nghe khi mình sai, không như Hitler.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Do đó, bước ngoặt của chiến trường phía Đông là khi Hitler
quyết định điều chỉnh kế hoạch của chiến dịch Blau, khiến cụm tập đoàn quân
phía Nam phải chia lực lượng ra làm hai để tiến đánh Stalingrad và vùng Kavkaz.
Thay vì tuân thủ kế hoạch ban đầu tiến đánh Stalingrad trước, rồi vòng xuống
Rostov để chiếm vùng Kavkaz nhiều mỏ dầu. Nếu chiến dịch Blau được tuân thủ
đúng hoạch định, Stalingrad đã bị một lực lượng cô đặc hơn tấn công và có thể
đã thất thủ từ sớm. Lúc đó, quân Đức sẽ hiện diện ở bờ Đông sông Volga ngay
trong mùa thu năm 1942 và cắt nước Nga ra làm hai phần Bắc và Nam không tiếp tế
được nhau.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Tuy vậy, trận chiến Stalingrad cũng không cần phải xảy ra vì
nơi này không phải là một điểm giao thông cần chiếm cho bằng được trên bản đồ của
quân Đức. Stalingrad đã trở thành chiến địa hỏa ngục trần gian thu hút và chôn
vùi hàng triệu quân hai bên và dân thường, chỉ vì một quyết tâm hoàn toàn mang
hơi hướng cá nhân của Hitler.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Stalingrad là một thành phố với nhiều nhà máy công nghiệp hạng
nặng trực tiếp sản xuất cung cấp cho chiến tranh. Thành phố nằm hoàn toàn trên
bờ Tây sông Volga. Khi các lực lượng tiên phong của Tập đoàn quân số 6 và Tập
đoàn Panzer (tăng) số 4 của Đức vượt sông Đông đến được cửa ngõ Stalingrad vào
tháng 8 năm 1942, với độ cao của vùng bờ Tây, họ nhìn thấy một vùng rộng lớn
bát ngát trải dài tới rặng Urals bên kia bờ sông Volga. Rất đáng tiếc khi sự lạc
quan của quân Đức vào thời điểm này không kéo dài được lâu. Họ sớm được chứng
kiến nguồn lực khủng khiếp của một nước gấu Nga khi bị dồn vào bờ vực tồn vong.
Tập đoàn quân 62 của Phương diện quân Stalingrad lúc đó đã bị đánh tơi bời manh
giáp, vẫn tiếp tục chiến đấu, khi tướng Chuikov lên thay làm Tư lệnh. Mặt trận
Stalingrad vốn cũng là nơi mà những nhân vật lớn lao khác của Liên bang Sô viết
tạo được dấu ấn lịch sử của mình: Tướng Zhukov và Chính ủy Khruschev. <span style="mso-spacerun: yes;"> </span><o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Đã có lúc xe tăng Panzer và bộ binh Đức đánh sát đến bờ sông
và bến phà, nhiều cứ điểm đổi chủ hàng chục lần, thành phố Stalingrad trở thành
một đống đổ nát lớn, hố bom chồng hố bom, nhưng lực lượng dự bị của Hồng quân vẫn
tiếp tục đổ về từ phía Đông. Các sư đoàn Siberi và các sư đoàn quân trừ bị khác
với đa số sắc dân Kazakh, Uzbek và đặc biệt là dân Tartar chiếm phần lớn quân
tiếp viện từ hậu phương vượt sông Volga tham chiến ở Stalingrad. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Các sư đoàn Đức, đặc biệt là xe tăng, rơi vào trận địa
Stalingrad buộc phải bỏ đi sở trường của mình để đánh theo kiểu cận chiến thí
quân với Hồng quân trên đường phố. Với lợi thế vượt trội về không quân, quân Đức
vẫn không cách chi dứt điểm được những ổ kháng cự được những sư đoàn thiện chiến
quân Vệ binh (Guards) của Hồng quân phòng thủ một cách ngoan cường. Bộ chỉ huy Tập
đoàn quân 62 của tướng Chuikov phải dời vị trí 4-5 lần nhưng trước sau vẫn trụ
lại ở bờ Tây theo nghiêm lệnh của Stalin. <span style="mso-spacerun: yes;"> </span><span style="mso-spacerun: yes;"> </span><o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Cũng như các lực lượng SS chuyên hành quyết dân Do Thái bên
phía vùng chiếm đóng của Đức, quân NKVD của Nga cũng manh động không kém. Chỉ
có khác là các sư đoàn NKVD vừa phòng thủ, vừa tiến hành trừng phạt những thành
phần trở cờ trong hàng ngũ Hồng quân. Trong sách, Beevor cho biết đã có hàng chục
ngàn quân Nga bị NKVD và sĩ quan Hồng quân hành quyết vì kỷ luật. Đoạn này bị độc
giả phát hành cắt mất trong bản dịch. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Có lẽ do sự hà khắc của NKVD hoặc bất mãn có sẵn của quân
lính một số nước thành viên trong Liên bang Sô viết, điển hình là Ukraine, đã
có hơn 270 ngàn quân Ukraine được chiêu mộ từ trại tù binh và chiến đấu trong
quân đội Đức. Những hàng binh này được gọi là “Hiwi” – trợ thủ Liên Sô. Thật
không thể tin được là đã có lúc lực lượng Hiwi này chiếm đến ¼ quân số của Tập
đoàn quân số 6, lực lượng chính bao vậy Stalingrad (trang 226). Nhiều nguồn tư
liêu của Beevor cho biết đám hàng binh này thỉnh thoảng khá trung thành và chiến
đấu rất lì trước quân Nga. Có lẽ họ biết rằng một khi về lại phía quân nhà thì
trước sau gì cũng bị NKVD hành quyết theo mệnh lệnh “Not one step back” của </div>
<div class="MsoNormal">
Stalin trước đây, áp dụng cho cả những kẻ đào ngũ, hàng binh, và ngay cả tù
binh.</div>
<div class="MsoNormal">
<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Một câu chuyện cười ra nước mắt khi một phi công Nga nhảy dù
cứ ngỡ là rơi vào phòng tuyến Đức và nhanh nhẩu xé thẻ đảng, vì anh bị tuyên
truyền rằng quân SS sẽ xử tử ngay những đảng viên Cộng sản trong Hồng quân. Rốt
cuộc anh cũng bị xử vì nơi anh đáp xuống là khu phòng tuyến của quân nhà chứ
không phải quân Đức.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Đầu tháng 11, khi quân Đức bắt đầu sa lầy ở Stalingrad,
Zhukov và các tướng lĩnh mở 2 chiến dịch lớn phản công trên mặt trận trung tâm
và khu Nam. Chiến dịch Sao Thiên Vương gồm 2 mũi tấn công thọc sâu vào sau lưng
địch. Xe tăng T-34 trứ danh của Liên Sô với diện tích mặt xích lớn để di chuyển
trên tuyết được dịp tung hoành. Tập đoàn quân số 6 của Đức dưới sự chỉ huy bị động
của tướng Paulus bị vây và cắt đứt với phần còn lại của Cụm tập đoàn quân Sông
Đông. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
Trong tình hình đó, Hitler ra lệnh cấm rút quân khiến Tập
đoàn quân số 6 đành bó tay chờ chết ở Stalingrad trong suốt mùa đông. Đầu năm
1943, Cụm tập đoàn quân của Thống chế Manstein sau khi phản công giải cứu
Paulus bị thất bại, đành phải lùi về phía Tây. Bị 6 tập đoàn quân Nga vây chặt,
Tập đoàn quân số 6 của Paulus cuối cùng cũng đầu hàng vào đầu tháng 2 năm 1943.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Cần biết thêm, người đọc đã từng coi phim Enemy at the Gate
(Jude Law đóng) – là một phim chiến tranh rất hay về Stalingrad - sẽ thấy người
anh hùng bắn tỉa Vasily Zaitsev được đề cập đến trong cuốn sách của Beevor. Câu
chuyện về cuộc đối đầu của Zaitsev và sĩ quan hiệu trưởng trường bắn tỉa của Đức
ở Stalingrad qua lời kể của David Grossman, phóng viên chiến trường Nga, được
Beevor xác nhận là không kiểm chứng được. Vì tư liệu phía Đức không cho thấy đã
phái sĩ quan bắn tỉa nào sang Stalingrad để săn Valisy Zaitsev.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Cho dù những câu chuyện mang hơi hướm huyền thoại như trên
có xảy ra hay không, thì không thể quên rằng đã có gần một triệu Hồng quân
thương vong để kìm chân quân Đức ở Stalingrad, trong đó có hơn 400 ngàn lính tử
vong. Đó là chưa kể số Hồng quân tổn thất ở các tập đoàn quân chung quanh và
dân thường bỏ mạng ở Stalingrad. Stalingrad không phải là nơi đầu tiên mà quân
Đức phải rút lui và thất bại (trước đó đã có một số trận thua ở Bắc Phi và Địa
Trung Hải), mà là bước ngoặt đầu tiên của cuộc chiến khi toàn bộ quân Đức ở mặt
trận phía Đông đang từ thế công như vũ bảo phải chuyển sang phòng thủ và rút
lui. Tập đoàn quân 62 của Chuikov đã có lúc chỉ còn thoi thóp, sau chiến thắng
Stalingrad được nâng cấp thành tập đoàn quân Vệ binh và cũng sẽ đóng vai trò
quan trọng trong trận chiến cuối cùng ở Berlin, chủ đề một cuốn sách nổi tiếng
khác của Antony Beevor.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<o:p> VL</o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<o:p> </o:p> </div>
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-84030219621415491802018-07-16T08:05:00.000-07:002018-07-16T08:15:59.603-07:00100 Năm Phi Trường Tân Sơn Nhất - Tổng Hành Dinh MACV<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span>
</div>
<table cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://4.bp.blogspot.com/-MFe8ennSdYU/W0yvMR0DphI/AAAAAAAAA7Y/iBToI9FUpP0WK_yS5fH-0wb2cAT6e6atgCLcBGAs/s1600/MACV%2B19435313599_83fe296480_b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><img border="0" data-original-height="683" data-original-width="1024" height="266" src="https://4.bp.blogspot.com/-MFe8ennSdYU/W0yvMR0DphI/AAAAAAAAA7Y/iBToI9FUpP0WK_yS5fH-0wb2cAT6e6atgCLcBGAs/s400/MACV%2B19435313599_83fe296480_b.jpg" width="400" /></span></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Trụ sở MACV 1969, phía xa là phi trường Tân Sơn Nhứt - Hình: George Lane</span></td></tr>
</tbody></table>
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span>
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif; margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><br /></span></div>
<div style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
</div>
<h3 style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Tổng hành dinh MACV và
phi trường Tân Sơn Nhứt</span></span></h3>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Sau khi nền đệ nhất
Cộng hòa sụp đổ ở miền Nam Việt Nam, Mỹ leo thang các hoạt động quân sự trên
toàn Đông Dương. Hai cơ quan chỉ huy quân đội Mỹ là MAAG (Phái bộ Cố vấn Viện
trợ Quân sự) và MACV (Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự) thường dẫm chân lên nhau trước
đây được nhập lại làm một để tăng hiệu năng công việc. Tướng nhảy dù
Westmoreland từ phó được thăng lên Tư lệnh MACV thay tướng Harkins, người không
tạo được phối hợp tốt với Đại sứ Mỹ Lodge trong thời gian trước đó.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Chính thức thành lập
đầu năm 1962, MACV dùng chung tòa nhà với tổng hành dinh MAAG ở villa <a href="https://maps.google.com/?q=s%E1%BB%91+606+%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tr%E1%BA%A7n+H%C6%B0ng+%C4%90%E1%BA%A1o&entry=gmail&source=g"><span style="color: #222222; text-decoration-line: none;">số 606 đường
Trần Hưng Đạo</span></a> hiện nay. Vài tháng sau, theo tốc độ bành trướng
chóng mặt của bộ máy, MACV dời tổng hành dinh về tòa nhà <a href="https://maps.google.com/?q=s%E1%BB%91+137+Pasteur&entry=gmail&source=g"><span style="color: #222222; text-decoration-line: none;">số 137 Pasteur</span></a> hiện
nay. Đến khoảng đầu năm 1965 nhân sự MACV tăng gần gấp mười lần khi mới dọn
vào <a href="https://maps.google.com/?q=137+Pasteur&entry=gmail&source=g"><span style="color: #222222; text-decoration-line: none;">137 Pasteur</span></a>,
và nhân viên của họ phải trải khắp các tòa nhà ở trung tâm Sài Gòn. <o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Theo cuốn MACV – The
Joint Command in the Years of Escalation 1962 – 1967 của Graham Cosmas, từ
tháng 3 năm 1965 tướng Westmoreland đã bắt đầu tìm địa điểm mới đủ rộng để đặt
tổng hành dinh tập hợp toàn bộ các cơ quan của MACV. MACV có 2 phương án:<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Option 1: Đặt tổng
hành dinh trên một khu đất có sân bóng gần nhà ga dân sự của phi trường Tân Sơn
Nhứt. Đây là địa điểm tối ưu nhất, vừa đáp ứng mong muốn rời xa trung tâm Sài
Gòn vừa nằm gần Bộ Tổng tham mưu VNCH gần phi trường Tân Sơn Nhứt.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Tuy vậy, qua hai cuộc
gặp gỡ giữa tướng Westmoreland với thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, chính quyền VNCH từ
chối cung cấp khu đất này. Theo Cosmas, lý do là vì TT Kỳ muốn để giành vị trí
sân bóng cho một khách sạn sẽ xây dựng khi chiến tranh kết thúc.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Option 2: Tháng 10
1965 MACV cân nhắc đặt tổng hành dinh mới ở một khu đất 31 acre vuông dọc theo
đường Petrus Ký (nay là đường Lê Hồng Phong) gần khu nhà ở của Ủy ban Giám sát
Quốc tế Hiệp định Geneva (International Commission Control).<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Tuy vậy, MACV luôn xem
khu đất ở Petrus Ký là Option 2 vì: + phản đối của dân địa phương không muốn
đặt tổng hành dinh quân sự Mỹ ở gần đó; + gần một khu chùa chiền Phật giáo nổi
tiếng hay đối đầu với chính quyền Thiệu – Kỳ. Theo đó, vị trí khu đất này có
thể nằm ở góc đường Lê Hồng Phong – Ba Tháng Hai hiện nay, vì nằm gần chùa Việt
Nam Quốc tự (là trung tâm đấu tranh của Phật giáo dưới thời đệ Nhất CH).</span><span style="font-family: "arial" , sans-serif;"><o:p></o:p></span></span></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></span></div>
</div>
<table cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><img border="0" data-original-height="766" data-original-width="594" height="400" src="https://3.bp.blogspot.com/-Lvy34_3tBo8/W0ytWE9-8mI/AAAAAAAAA7M/p-GOy7ZiJNEH821xgeTCG46pJOKKSJfggCLcBGAs/s400/MACV%2B1967.jpg" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;" width="310" /></span></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Vị trí MACV 1967 - Hình: Cosmas</span></td></tr>
</tbody></table>
<div style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><span style="color: #222222;"><span style="font-family: "times" , "times new roman" , serif;"> </span></span><span style="font-family: "times" , "times new roman" , serif;"><span style="color: #222222;"><br /></span></span></span></div>
</div>
<div style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Cuối tháng 4 năm 1966,
khi chính quyền VNCH bận tay xử lý phong trào Phật giáo và nổi loạn của quân
đội ở Vùng 1 Chiến thuật, Đại sứ Lodge và tướng Westmoreland tái khởi động dự
án Option 1 và tướng Kỳ phải đồng ý. Tháng 8 năm 1967 nhà thầu Mỹ hoàn tất xây
dựng và MACV dọn vào tổng hành dinh mới.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Tổng hành dinh mới tốn
25 triệu USD xây dựng với nickname “Pentagon East”, có ý xem như Lầu Năm góc
thứ hai ở phương Đông. Pentagon East là một khu phức hợp gắn điều hòa rộng bằng
1/3 tòa nhà Pentagon ở thủ đô Washington, với 12 acre vuông không gian văn
phòng. Khu tổng hành dinh còn có trại lính, hội trường, một tòa nhà bảo quản
lạnh, nhà phát điện và đường điện thoại riêng. Vị trí đắc địa này không những
gần Bộ Tổng tham mưu của quân lực VNCH mà còn gần trung tâm chỉ huy Không quân
của MACV đặt trong phi trường TSN và nhiều cơ quan đầu não khác của quân đội
liên quân.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Cùng với việc tổng
hành dinh MACV của Mỹ được thiết lập trên khu đất của mình, phi trường Tân Sơn
Nhứt cũng đang trải qua giai đoạn mở rộng cấp tập vì chiến sự leo thang.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Theo tác giả Quốc Việt
trong cuốn sách mới đáng chú ý 100 năm Phi trường Tân Sơn Nhất (Phương Nam -
NXB Thế Giới, 2018), tháng 7 năm 1965 chính phủ VNCH quyết định sáp nhập phi
trường, các khu quân sự, dân sự thành một khu vực quân sự duy nhất, gọi là Yếu
khu quân sự Tân Sơn Nhứt dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Không đoàn 33 VNCH.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt;">
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
</div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222; line-height: 107%;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Cùng năm, chính phủ cũng
triển khai nghiên cứu dự án xây dựng đường băng mới dài hơn 1000m để giải tỏa
áp lực quá tải của đường băng hạng A duy nhất của TSN, lúc đó đang phải chịu
lưu lượng tăng vọt của các chuyến bay quân sự (chiếm 80%) và dân sự. Công việc
tiến triển chậm vì thiếu kinh phí. Đúng lúc đó, Không quân Mỹ được chấp thuận
một khoản viện trợ 6 triệu rưỡi đô la để xây dựng một đường băng dài 3000m. Dự
án khởi công năm 1966 và hoàn thành sau đó. Đường băng mới góp phần đem lại lợi
ích cho nền kinh tế VNCH nhưng cũng là phương tiện cần để phục vụ kế hoạch tăng
viện cho chiến trường Việt Nam của Mỹ (theo Quốc Việt, trang 98).</span></span></div>
</div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><span style="font-family: "times" , "times new roman" , serif;"><br /></span>
</span></div>
<table cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://3.bp.blogspot.com/-vgruj-_qOX4/W0ywhUkqEqI/AAAAAAAAA7k/XY0AAG5rsTIOZLt9P_k6uo0QKRqyDz2vQCLcBGAs/s1600/100%2BPHI%2BTRUONG%2BTSN%2B%25282%2529.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><img border="0" data-original-height="1600" data-original-width="1200" height="400" src="https://3.bp.blogspot.com/-vgruj-_qOX4/W0ywhUkqEqI/AAAAAAAAA7k/XY0AAG5rsTIOZLt9P_k6uo0QKRqyDz2vQCLcBGAs/s400/100%2BPHI%2BTRUONG%2BTSN%2B%25282%2529.jpg" width="300" /></span></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">100 Năm Phi Trường Tân Sơn Nhất, Quốc Việt, Phương Nam & NXB HNV 2018 - Hình: Hoàng Diệu</span></td></tr>
</tbody></table>
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><span style="font-family: "times" , "times new roman" , serif;"><br /></span>
</span></div>
<h3 style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "verdana" , sans-serif;">Tổng hành dinh MACV – Cuộc di
tản cuối cùng</span></h3>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222; font-family: "verdana" , sans-serif;">Những ngày cuối cùng
của cuộc chiến, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị buộc phải ra đi. Và Tân Sơn Nhứt
là chứng nhân cuộc ra đi thầm lặng, buồn thảm này, như được mô tả khá chi tiết
ở Phần 11 – Phi trường rực lửa, cuốn sách 100 năm Phi trường Tân Sơn Nhất vừa
xuất bản.</span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Thời điểm này phi
trường Tân Sơn Nhứt đang hỗn loạn vì những cuộc di tản. Theo tác giả Quốc Việt,
tướng Hoàng Anh Tuấn, trưởng đoàn đại biểu Quân sự của Chính phủ Cách mạng Lâm
thời đang đóng trong trại Davis bên trong phi trường (để giám sát việc thực thi
Hiệp định Paris) kể rằng pháo 130 ly của quân giải phóng bắn dồn dập vào phi
trường từ ngày 29 đến sáng 30/4, một quả đạn rót lạc vào trại Davis làm tử
thương hai chiến sĩ VC. Pháo cộng hưởng với đợt ném bom của phi đội A37 do
Nguyễn Thành Trung chỉ huy từ chiều 28 làm các phi đạo của Tân Sơn Nhứt hầu như
tê liệt. Kế hoạch di tản bằng máy bay có cánh của Mỹ (fixed-wing) phải hủy bỏ.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">10:51 sáng ngày 29/4,
Mỹ khởi động chiến dịch Frequent Wind để tiếp tục việc di tản từ Tân Sơn Nhứt
bằng trực thăng. Phi đội gồm chủ yếu các trực thăng không vận CH-53, được bảo
vệ bởi các trực thăng vũ trang Cobra và lực lượng hỗ trợ - cứu hộ, sẽ không vận
thủy quân lục chiến (TQLC) Mỹ thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn 4 TQLC đổ xuống khu
tổng hành dinh của Mỹ ở Tân Sơn Nhứt vào khoảng hơn 3h chiều. Từ đây, TQLC sẽ
thiết lập hệ thống phòng thủ bảo vệ cuộc di tản cho đến lúc hoàn tất.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Cần biết rằng từ ngày
29 tháng 3 năm 1973, Mỹ đã chính thức giải thể MACV (Bộ Chỉ huy Quân viện Mỹ ở Việt Nam) và thành lập DAO (Defense Attache Office – Cơ quan Tùy viên
Phòng vệ), là một cơ quan nhỏ hơn về quy mô, có trách nhiệm giám sát chương
trình hỗ trợ quân sự của Mỹ, đương nhiên là tuân theo Hiệp định Paris. Những
hoạt động quân sự chính đều chuyển về tổng hành dinh mới ở Nakhon Phanom ở Thái
Lan.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Khu tổng hành dinh và
tòa nhà mệnh danh “Pentagon East” của MACV trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhứt
trở thành trụ sở của DAO. Bộ chỉ huy Không đoàn 7 của Mỹ cũng dời từ căn cứ
không quân Tân Sơn Nhứt sang Thái Lan.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Theo cuốn US Marines
in Vietnam: The Bitter End 1973 – 1975 của Dunham & Quinlan, chiến dịch di
tản chia khu tổng hành dinh DAO làm 3 khu chủ yếu (khu trung tâm Alamo gồm tòa
nhà Pentagon East, khu nhà phụ kế bên – các tòa nhà Annex, và khu nhà của hãng
Air America). TQLC chia nhau bảo vệ 7 bãi đáp quanh 3 khu nhà nói trên trong
khi trực thăng làm nhiệm vụ.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<table cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://3.bp.blogspot.com/-91_MH61QHCA/W0yw2hTRSEI/AAAAAAAAA7s/a0BO16m0s8EzPL8B8jOFYXaCsZ60OGQxwCLcBGAs/s1600/Frequent%2BWind.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><img border="0" data-original-height="574" data-original-width="623" height="294" src="https://3.bp.blogspot.com/-91_MH61QHCA/W0yw2hTRSEI/AAAAAAAAA7s/a0BO16m0s8EzPL8B8jOFYXaCsZ60OGQxwCLcBGAs/s320/Frequent%2BWind.jpg" width="320" /></span></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Sơ đồ 7 bãi đáp (LZ) của Chiến dịch di tản Frequent Wind chung quanh tổng hành dinh DAO - Hình: Dunham & Quinlan</span></td></tr>
</tbody></table>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222; font-family: "verdana" , sans-serif;">Đến tầm 20:00 ngày
29/4, 394 người Mỹ và 4475 người Việt + quốc tịch thứ ba đã được trực thăng di
tản khỏi khu tòa nhà DAO. Điểm đến là tàu của Đệ Thất hạm đội đậu ngoài khơi
Vũng Tàu.</span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">22:50 khi các nhóm
kiểm soát điều phối bãi đáp đã được rút đi, đến lượt các lực lượng TQLC bảo an
mặt đất được lệnh di tản khỏi DAO.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">9 giờ từ khi cuộc di
tản bắt đầu, vào khoảng 12:30 đêm rạng sáng 30/4, lựu đạn nhiệt đặt ở nhiều vị
trí trong tòa nhà DAO đồng loạt phát nổ, khiến cả khu chìm trong biển lửa, khi
2 chiếc trực thăng CH-3 chở những lính TQLC cuối cùng rời khỏi khu tổng hành
dinh. Tòa nhà rộng bằng 1/3 Ngũ giác đài, nơi từng là đầu não của quân Mỹ trong gần 8 năm, với bê tông cốt thép quằn quại trong khói lửa là hình ảnh bi ai cuối cùng của đội quân mạnh nhất thế giới ở Việt Nam. Đại sứ quán Mỹ, hiện diện cuối cùng của chính phủ Mỹ ở Việt Nam sẽ hoàn tất di tản trong cùng ngày hôm đó.<o:p></o:p></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></span></div>
</div>
<table cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://1.bp.blogspot.com/-l1twwsAOf-k/W0yxIfI2pcI/AAAAAAAAA70/QXU7usfIb3ourjNyyMt5sJtbsRrhaO4YwCLcBGAs/s1600/DAO%2Bdestroyed.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><img border="0" data-original-height="358" data-original-width="615" height="232" src="https://1.bp.blogspot.com/-l1twwsAOf-k/W0yxIfI2pcI/AAAAAAAAA70/QXU7usfIb3ourjNyyMt5sJtbsRrhaO4YwCLcBGAs/s400/DAO%2Bdestroyed.jpg" width="400" /></span></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;">Tòa nhà DAO, từng được mệnh danh là "Pentagon East" bốc cháy sau khi TQLC gài chất nổ phá hủy - Hình: Dunham & Quinlan </span></td></tr>
</tbody></table>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222;"><span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><br /></span></span></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="background: white; line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #222222; font-family: "verdana" , sans-serif;">Có một chi tiết thú vị
là trong những giờ cuối cùng của DAO, lính TQLC được lệnh đốt phần lớn số tiền
mặt 13 triệu đô la vừa chuyển từ Mỹ sang vào đầu tháng 4, chứa trong 3 thùng
phuy (theo Dunham & Quinlan).</span></div>
</div>
<br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: times, "times new roman", serif;"><br /></span></div>
<span style="font-family: "verdana" , sans-serif;"><div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: times, "times new roman", serif;">VL </span></div>
</span><br />
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-35135118692620637872018-01-12T22:35:00.000-08:002018-07-16T08:17:01.204-07:00Huế 1968: A Turning Point of the American War in Vietnam - Mark Bowden <table align="center" cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://1.bp.blogspot.com/-tdLoDHCEv5A/WlmmDQoTOKI/AAAAAAAAAoM/zJnzjrL_7pgIpRRvOX8he5ak-3yHD6WAQCLcBGAs/s1600/IMG_3753.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><img border="0" data-original-height="1600" data-original-width="1200" height="400" src="https://1.bp.blogspot.com/-tdLoDHCEv5A/WlmmDQoTOKI/AAAAAAAAAoM/zJnzjrL_7pgIpRRvOX8he5ak-3yHD6WAQCLcBGAs/s400/IMG_3753.JPG" width="300" /></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;">Add caption</td></tr>
</tbody></table>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Trong phần lớn sách hay phim của người Mỹ làm về chiến tranh Việt Nam, câu chuyện kể vẫn chủ yếu là của những người Mỹ. Huế: 1968 của Mark Bowden cũng là một trong số đó. Tác giả chịu khó phỏng vấn khá nhiều nhân vật từ bên thắng cuộc, tuy vẫn là số ít so với số lượng câu chuyện của phía Mỹ. Phía VNCH hầu như chỉ được nhắc đến rất qua loa.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Tuy ít, nhưng phần lớn những nhân vật của quân lực VNCH nhắc đến trong cuốn sách đều được tôn trọng, đôi khi ngưỡng mộ. Đó không chỉ là đánh giá của tác giả. Ví dụ như trường hợp của Đại đội Hắc Báo, đại đội trinh sát và viễn thám của Sư đoàn 1 Bộ binh. Đây là một đơn vị cực kỳ tinh nhuệ, chuyên tham gia hành quân hỗn hợp với các lực lượng Mỹ ở Vùng 1 chiến thuật. Thường xuyên ở tuyến đầu, Hắc Báo có thừa kinh nghiệm chiến đấu. Đến nổi sĩ quan cố vấn của đơn vị là Đại úy Jim Coolican thừa nhận rằng ở bên cạnh những người lính mà anh "cố vấn", anh mới là kẻ thiếu kinh nghiệm và ngu ngơ. Sự hữu dụng duy nhất mà anh mang lại cho họ là cái radio, mà từ đó Coolican có thể gọi pháo binh và không quân Mỹ yểm trợ.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Hắc Báo chỉ khoảng 100 - 200 người, nhưng đóng vai trò khá then chốt trong trận chiến Huế. Trong đêm đầu tiên, các trung đội Hắc Báo được tướng Ngô Quang Trưởng điều động đóng chốt ở các tòa nhà trọng yếu trong thành phố. Nhóm Hắc Báo do chính đại đội trưởng Trần Ngọc Huế "Harry" chỉ huy phòng thủ sân bay Tây Lộc đã giúp cầm chân mũi tấn công của quân Bắc Việt ở đây cho đến hết ngày hôm sau. Sau đó, nhóm của Trần Ngọc Huế được tướng Trưởng gọi về hỗ trợ phòng thủ Bộ tư lệnh Sư đoàn ở Mang Cá. Ở những ngày cuối cùng của trận chiến, đại đội Hắc Báo cũng là đơn vị trực tiếp đánh vào khu Thành Nội, gỡ lá cờ Mặt trận giải phóng đã tung bay ở đó hơn 3 tuần lễ.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Trần Ngọc Huế "Harry" sau này còn trực tiếp tham gia nhiều cuộc hành quân quan trọng khác. Trong chiến dịch Hạ Lào 1971, anh bị bắt và bị giam giữ 13 năm, rồi bị quản thúc thêm nhiều năm trước khi được cố vấn Coolican giúp cho định cư ở Mỹ. Cấp chỉ huy của ông, tướng Ngô Quang Trưởng, trong trận Huế đang là Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, cũng nhận được sự tôn trọng của các tướng lĩnh Mỹ, như tác giả mô tả.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Nhưng các sĩ quan Mỹ như Coolican là số ít, hầu hết đều xem thường người lính VNCH. Lính Mỹ, từ lính trơn cho đến cấp chỉ huy đều mang một thành kiến nặng nề về một quân đội nhu nhược và vô dụng. Cũng từ thành kiến này, cấp chỉ huy Thủy quân lục chiến ở bộ chỉ huy khu vực đã ra lệnh cho Thiếu tá Thompson, chỉ huy tiểu đoàn tăng viện cho mặt trận kinh thành Huế ( Mỹ gọi là Citadel ) không được nghe lệnh của tướng Trưởng, mà cần phải chỉ huy ngược lại một sĩ quan trên mình 3 bậc. Bỏ qua không tham khảo kinh nghiệm tác chiến tại chỗ còn nóng hổi của lực lượng VNCH, tiểu đoàn của Thompson bị thương vong nặng nề trong ngày đầu tiên càn quét Citadel.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Đó không phải là lần duy nhất quân Mỹ phải trả giá đắt bằng nhân mạng vì cung cách tiếp cận kiêu ngạo của mình. Những ngày đầu của trận chiến, các cấp chỉ huy còn mù mờ về tình hình chiến trường đã liên tục đưa ra những quân lệnh tự sát cho các đơn vị của mình. Hàng trăm thương vong là kết quả từ những cuộc nướng quân điên rồ, với người chỉ huy ra lệnh tiến quân mà chỉ dựa hoàn toàn vào bản đồ.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Như tác giả tự nhận, cuốn sách này khác với một vài cuốn khác về Huế - Mậu Thân ở chỗ nó tập trung tả lại trận chiến dưới mắt của những người lính Mỹ, ở tầm nhìn thấp và sát nhất có thể. Người đọc hình dung diễn biến trận chiến ác liệt, với những tình huống sống động và dã man, đôi khi đẩy con người đến những giới hạn cuối cùng. Nếu ai mong muốn một phân tích tổng thể, rạch ròi của trận chiến với diễn biến và di chuyển của từng đơn vị hẳn sẽ thất vọng. Cuốn sách chỉ là một tập hợp và xâu chuỗi của những câu chuyện cá nhân rời rạc của những người tham gia trận chiến.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Cách kể chuyện này ban đầu khá hấp dẫn, nhưng càng về sau càng nhàm chán. Dường như tác giả cố gắng nhồi nhét tất cả những gì mình thu thập được để làm nên gần 600 trang sách.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Như tác giả tự nhận, cuốn sách của ông khác với các cuốn khác ở chỗ nó nói nhiều hơn về mất mát của cư dân Huế. Thật ngạc nhiên khi tất cả các báo cáo, tài liệu về trận chiến từ phía Mỹ đều không đề cập đến tổn thất nhân mạng của dân thường. Tuy vậy, hầu hết những người lính mà tác giả đã phỏng vấn đều kể về xác chết của dân thường nằm đầy đường, trong nhà, trong đống đổ nát, hay dưới hầm trú bom. Con số sách đưa ra là 5800 dân thường thiệt mạng trong hơn 3 tuần của trận chiến. Tuy nhiên, con số thực sự có thể còn cao hơn. Không rõ những nạn nhân của "the purge", hay được biết đến như vụ thảm sát Mậu Thân - Huế đã được tính trong số này chưa. Trong sách, nhiều lần tác giả đã nhắc đến vụ thảm sát này, mà nạn nhân chủ yếu là gia đình của các nhân viên chính quyền, gia đình quân nhân, hay người theo đạo Thiên chúa. Những chi tiết về cuộc thảm sát có lẽ được tác giả tham khảo phần nào trong cuốn Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, người đã được ông phỏng vấn.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Khi nói về dân thường, người đọc sẽ thấy chiến tranh thật tàn khốc. Bị kẹt trong khu Citadel, các cổng chính đều bị lính hai phe kiểm soát, người dân không có đường thoát. Lính Mỹ hầu như không đủ kiên nhẫn và tỉnh táo để phân biệt quân địch và dân thường trước khi nổ súng. Ngoài lực lượng chính quy mặc quân phục, rất nhiều lực lượng quân địa phương bên phía Mặt trận đều mặt áo bà ba như dân thường. Do đó, khi thấy người Việt là lính Mỹ có xu hướng nổ súng. Có trường hợp, một đội súng máy Mỹ được lệnh kiểm soát một cửa thành và bắn tất cả những ai đi qua. Khi thấy một cặp vợ chồng trẻ ẵm theo hai đứa con chạy đến, những người lính Mỹ trì hoãn và đùn đẩy cho nhau bóp cò. Cuối cùng, họ tìm thấy trong xác cô vợ trẻ vừa bị bắn chết một bản đồ có đánh dấu chi tiết các điểm đặt súng máy của lính Mỹ.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Trái ngược với đánh giá ban đầu của phía Mỹ về khả năng chiến đấu của phía Mặt trận, quân giải phóng chiến đấu rất chuyên nghiệp, kỷ luật, và khôn ngoan. Quân Mặt trận biết cách set up các hệ thống phòng thủ bài bản, với lưới hỏa lực đan chéo (overlapping field of fire), và các hố phòng thủ hình chữ L. Hầu như tất cả các lần lính Mỹ xung phong tràn ngập cứ điểm của phía Mặt trận, họ đều thấy những tòa nhà đã bị bỏ trống, khi quân địch vừa mới rút khỏi trong gang tấc. Ngoài ra, chiến trường Huế còn là thiên đường của lính bắn tỉa, đặc biệt từ phía Mặt trận. Lính bắn tỉa từ phe kia được hầu hết lính Mỹ mô tả là cực kỳ chính xác. Đó cũng có thể đã tạo nên hứng khởi cho người làm phim Full Metal Jacket.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: white; color: #222222; font-family: arial, sans-serif; font-size: 12.8px;" /></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: "arial" , sans-serif; font-size: 12.8px;">Đọc Huế; 1968 của Mark Bowden ta càng hiểu rõ tại sao quân đội Mỹ không thắng được cuộc chiến Việt Nam. Các cấp chỉ huy hầu hết đều rất kiêu ngạo, không hiểu rõ chiến trường và tình hình, không hiểu rõ kẻ địch, xem thường kẻ địch, và xem thường đồng minh.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
VL (9/17)</div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="text-align: justify;">
<br /></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-37952512409968086362018-01-03T08:32:00.000-08:002018-01-03T08:32:02.043-08:00Autumn - Ali Smith<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://2.bp.blogspot.com/-fWe1C684GB0/Wk0E5b7VOXI/AAAAAAAAAno/bMShEgJ2JEwdTV-sN4FMxeheNPj_iZM-gCLcBGAs/s1600/IMG_4505.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1600" data-original-width="1282" height="320" src="https://2.bp.blogspot.com/-fWe1C684GB0/Wk0E5b7VOXI/AAAAAAAAAno/bMShEgJ2JEwdTV-sN4FMxeheNPj_iZM-gCLcBGAs/s320/IMG_4505.JPG" width="256" /></a></div>
<br />
<br />
<div class="MsoNormal">
Pauline Boty, một nghệ sĩ pop art người Anh giữa thế kỷ 20,
là nỗi ám ảnh xuyên suốt cuốn tiểu thuyết Autumn của Ali Smith. Là nữ nghệ sĩ
tiên phong với ít nhiều nổi loạn, rất nhiều nữ quyền, một ít showbiz, Pauline
Boty đã theo đuổi dòng tranh Collage. Một kiểu nghệ thuật thị giác cố tình chắp
vá, lắp ghép ngẫu nhiên những mảnh vụn từ sách, tranh, lời bài hát, v..v.. Những
patchwork có vẻ hỗn loạn này phóng chiếu một cách hoàn hảo bức tranh của nước
Anh hậu-Brexit, cũng là bối cảnh/chủ đề của Autumn – Ali Smith. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Câu mở đầu sách “It was the worst of time, it was the worst
of times” trích từ A Tale of Two Cities của Dickens đã gợi ý nên một băn khoăn
chính trị. Tiếp theo đó là những Brave New World – The Tempest; hóa thân của
Ovid; Clockwork Orange, v..v.. một loạt những dẫn chứng văn chương như những đồng
vọng của tinh thần Anh, trong cuộc truy tìm căn tính quốc gia trong thời đại lạ
lùng này. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
Ở đó, sự quan liêu của một nhân viên bưu điện trong việc làm
lại hộ chiếu, được mô tả hài hước, khơi gợi đến sự bối rối, băn khoăn của một
người Anh bình thường khi cuộc trưng cầu dân ý về việc tiếp tục là thành viên
Liên hiệp Châu Âu (EU) đang diễn ra. Ở đó, tại ngôi làng mà mẹ của nhân vật
chính Elisabeth đang sống, người ta sơn lên tường một ngôi nhà bị cho là của
người nhập cư: “GO HOME”. Bên dưới dòng chữ này là một dòng chữ khác: “WE ARE
ALREADY HOME THANK YOU”, đi kèm với hoa mà người đi đường để lại để ủng hộ tinh
thần người chủ nhà. Zoom out ra khắp đất nước, người ta cũng thấy một tình huống
tương tự.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
“Trên khắp đất nước, những gì diễn ra tự quăng quật chính nó
như một sợi dây điện tí tách đứt khỏi trụ điện trong cơn bão, tung tăng trong
khoảng không trên ngọn cây, mái nhà và dòng xe cộ.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
Trên khắp đất nước, người ta nghĩ đó là sai. Trên khắp đất
nước, người ta nghĩ đó là đúng. Trên khắp đất nước, người ta nghĩ họ đã thua.
Trên khắp đất nước, người ta nghĩ họ đã thắng…”<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
Nghe là thế, nhưng băn khoăn về căn tính của nước Anh đương
đại chỉ được nói đến rất ít trong Autumn. Bao quanh, ôm gọn và làm nó lọt thỏm
trong đó là một cuốn sách được viết phi tuyến tính, với nhiều vấn đề và sự kiện
diễn ra cùng một lúc và ở những lúc khác nhau, quanh hai nhân vật chính:
Elisabeth, một giảng viên về nghệ thuật và người hàng xóm tri kỷ, ông Daniel
Gluck, 101 tuổi, hiện đang chìm sâu trong giấc ngủ người già ở viện dưỡng lão.
Những lát cắt quá khứ, hiện tại đan xen với các giấc mơ hiện thực, với sự hóa
thân siêu thực (ông Gluck thấy mình dần biến thành cây xanh) và những chi tiết
có vẻ lung tung khác, dễ làm người đọc bối rối và lạc lối. Tuy nhiên, bút pháp
của Ali Smith linh hoạt, đùa giỡn và đầy sáng tạo vẫn giữ được người đọc thấp
thỏm để đi hết hành trình. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
Ali Smith, người có vẻ như bị ám ảnh bởi thời gian trong
cách kể chuyện (đã từng băn khoăn làm thế nào để viết về hai sự kiện diễn ra
cùng lúc với cùng một thức chia động từ về thời gian) đã làm cho Autumn thành một
tiểu thuyết về thời gian. Ở đây, có vẻ như thời gian không còn là trung gian của
kể chuyện mà chính là đối tượng. Đôi khi, ranh giới giữa người kể chuyện và
nhân vật mờ đi, cũng như ý niệm về thời gian dễ dàng lén lút trượt từ thời điểm
này sang thời điểm khác. Người đọc có lẽ cần ít kiên nhẫn để tự xâu chuỗi những
sự kiện theo trình tự tuyến tính của chính mình.<o:p></o:p></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
Autumn là tiểu thuyết đầu tiên trong một loạt bộ tứ về mùa
mà Ali Smith đang thực hiện. Trước mắt, cuốn tiếp theo Winter đang sắp ra mắt
và đang được review. <o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
VL</div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-17928759586610110402017-03-24T09:54:00.001-07:002018-01-03T08:32:40.107-08:00The Quiet American (Người Mỹ Trầm Lặng) - Graham Greene<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://2.bp.blogspot.com/-A2GW7KGVub0/WNVPPbuqL6I/AAAAAAAAAhY/h4PyXTsZRHIavAmD-9UY6b6iEDtlsS-HQCLcB/s1600/IMG_4833.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://2.bp.blogspot.com/-A2GW7KGVub0/WNVPPbuqL6I/AAAAAAAAAhY/h4PyXTsZRHIavAmD-9UY6b6iEDtlsS-HQCLcB/s320/IMG_4833.JPG" width="256" /></a></div>
<br />
<br />
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="daa0u-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="daa0u-0-0">
<span data-offset-key="daa0u-0-0">The Quiet American với mối tình tay ba Fowler – Phượng – Pyle là một cuốn sách không đơn giản như có vẻ thế. Phượng, bị dằn vặt giữa Fowler, người đến trước, quen thuộc, già dặn, không thể đem đến một cái kết có hậu, và Pyle, kẻ đến sau, trẻ trung, thẳng thắn, sẵn sàng hứa hẹn một cuộc hôn nhân ổn định, nhưng lại quá nhiều nhiệt huyết một cách ngây thơ. Người đọc có thể xem mối tình tay ba này như tam cực Mỹ - Việt – Anh (hay Châu Âu) vào thời điểm hậu chiến, với các tầng ẩn ý chính trị khác nhau, hay phân tích về đạo đức hay các khía cạnh lý thuyết khác. Ở đây, đối với một người đọc Việt Nam bình thường, có thể ta sẽ hứng thú hơn đối với các địa danh trong sách, của một Sài Gòn xưa.</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="9urqk-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="9urqk-0-0">
<span data-offset-key="9urqk-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="7f7v5-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="7f7v5-0-0">
<span data-offset-key="7f7v5-0-0">Hàng ngày, Graham Greene, hay Fowler, có thói quen đi dọc theo con đường rue Catinat (Tự Do/ Đồng Khởi) , bắt đầu từ nhà thờ Đức Bà về hướng bờ sông. Trước khi vào rue Catinat ở phía trái là tòa nhà mà Greene gọi là Vietnamese Sureté, còn người Việt gọi là Bót cảnh sát Catinat. Đây là nơi Thanh tra Vigot làm việc, thỉnh thoảng giam giữ và tra tấn tù nhân chính trị, nơi mà bức tường rào lúc nào cũng có vẻ "hôi mùi nước tiểu và bất công". Bên kia đường là Metropolitan hiện nay.</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="36i6q-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="36i6q-0-0">
<span data-offset-key="36i6q-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="7rgph-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="7rgph-0-0">
<span data-offset-key="7rgph-0-0">Bước tới một lát là địa điểm quen thuộc của cả Greene lẫn Fowler, nhân vật chính của sách: khách sạn Continental Palace Hotel nổi tiếng. Quán cà phê Continental Terrace có bàn ghế nửa trong nửa ngoài là nơi mà Fowler lần đầu gặp Pyle, người Mỹ trầm lặng. Khi đó, Pyle băng qua place Garnier (quảng trường Lam Sơn), đến quán cà phê Continental Terrace, có lẽ là từ hướng Boulevard Bonard ( Lê Lợi).</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="e2rqm-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="e2rqm-0-0">
<span data-offset-key="e2rqm-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="coo68-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="coo68-0-0">
<span data-offset-key="coo68-0-0">Ngay góc đường Bonard và Catinat đối diện với Continental là quán milk-bar mà Phượng, nhân vật nữ chính người Việt, hay ngồi vào lúc 11 giờ rưỡi sau khi đi chợ. Quán milk-bar này Greene lấy hình mẫu từ quán cà phê Givral khét tiếng sau này, lúc đó có lẽ vừa mở cửa được vài năm. Đi vài bước theo Boulevard Bonard là đến giao lộ với Boulevard Charner (Nguyễn Huệ), nơi Fowler và Pyle mục kiến thương vong của vụ nổ bom khủng bố do Lực Lượng Thứ Ba của tướng Trình Minh Thế thực hiện. Ngay góc giao lộ này là tòa nhà Thương xá Tax, mà Fowler gọi là "big store", có thể lúc này vẫn còn là trung tâm thương mại Grands Magasins Charner với mái vòm hào nhoáng có chữ GMC. </span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="9evs-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="9evs-0-0">
<span data-offset-key="9evs-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="dg85r-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="dg85r-0-0">
<span data-offset-key="dg85r-0-0">Đâu đó gần đây, ngay trên đại lộ Charner là vị trí của nhà hàng Le Club, nơi mà các thành viên của Surete thích tụ tập ăn nhậu ở tầng trệt. Le Club, cũng giống một số nhà hàng khác tập trung đông người Tây phương, không có kính trên cửa do sợ miểng vỡ do lựu đạn khủng bố, cũng vì lý do đó khách thường thích ngồi trên lầu hơn. </span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="6ptvl-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="6ptvl-0-0">
<span data-offset-key="6ptvl-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="c74n7-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="c74n7-0-0">
<span data-offset-key="c74n7-0-0">Một nhà hàng khác cũng là nơi Fowler hay lui tới là Vieuxe Moulin, một địa điểm hư cấu, nằm ở một đầu cầu dẫn đến Dakow. Nếu cố ép uổng để định vị cầu nào dẫn đến Dakow/Đa Kao thì xem ra gần nhất chỉ có cầu Thị Nghè. Vieuxe Moulin cũng là địa điểm định mệnh mà Fowler hẹn Pyle vào cuối truyện. Sau đó, người ta sẽ tìm thấy xác của người Mỹ trầm lặng dưới chân cầu Dakow.</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="6vrgd-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="6vrgd-0-0">
<span data-offset-key="6vrgd-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="3d88v-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="3d88v-0-0">
<span data-offset-key="3d88v-0-0">Hãy quay về rue Cartinat. Một phần nhật trình của Fowler là đi bộ từ Continental về hướng bờ sông khoảng buổi chiều, làm một vài ly ở Majestic đón gió bờ sông, trước khi đi ngược về để ăn tối. Cần nói thêm, nếu chúng ta đi tiếp dọc theo bờ sông sẽ đến địa điểm gọi là American Legation trong truyện, còn được biết đến như Tòa đại sứ Mỹ, nằm ở vị trí trên đường Hàm Nghi hiện nay, nơi Fowler đến tìm Pyle sau khi Phượng bỏ đi. </span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="7nv43-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="7nv43-0-0">
<span data-offset-key="7nv43-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="9ljet-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="9ljet-0-0">
<span data-offset-key="9ljet-0-0">Ở giữa Continental và Majestic là một apartment theo kiến trúc hiện đại thời đó, mà Fowler gọi là nhà của ông trồng cao su. Từ vị trí này, nhân vật chính sẽ đi bộ ngược về place Garnier, băng qua đường để tránh mặt Phượng, lúc đó đang ngồi trong quán milk-bar/Givral, rồi vào quán cafe Pavilion để kêu một ly bia. Không rõ quán Pavilion này có thật hay hư cấu, nhưng chắc chắn là nó phải nằm đâu đó trên rue Cartinat cùng phía với Continental, hướng về nhà thờ. Tại đây, Fowler sẽ mục kích vụ nổ bom kinh hoàng đạo diễn bởi Lực Lượng Thứ Ba, được tiếp sức một cách ngây thơ bởi người Mỹ trầm lặng. </span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="5ok5d-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="5ok5d-0-0">
<span data-offset-key="5ok5d-0-0"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="5ehen" data-offset-key="9vojd-0-0">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="9vojd-0-0">
<span data-offset-key="9vojd-0-0">Ngoài khu Quận 1, Greene còn nhắc đến một địa điểm có thật là Grande Monde (sòng bài Đại Thế Giới) ở Chợ Lớn, nơi Fowler lần đầu gặp Phượng. </span></div>
</div>
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-65463439470781707192016-01-10T09:59:00.001-08:002016-01-26T20:32:58.235-08:00Lord of the Flies - William Golding<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-11oY-GuQ0kk/VpKbuQEGm8I/AAAAAAAAAZg/EefsL7oA-Xs/s1600/12507449_10207961515732483_585593416801064324_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://3.bp.blogspot.com/-11oY-GuQ0kk/VpKbuQEGm8I/AAAAAAAAAZg/EefsL7oA-Xs/s320/12507449_10207961515732483_585593416801064324_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Lord of the Flies làm mình nhớ đến Heart of Darkness, nhưng đương nhiên Lord of the Flies có cách viết dễ tiếp cận hơn nhiều lần. Tình tiết truyện lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Cuốn sách là một tuyên ngôn về bản tính con người với nhiều tầng biểu tượng. William Golding dùng hình ảnh những đứa trẻ, thường được xem như biểu tượng của sự ngây thơ, để đưa người đọc qua một hành trình dằn vặt về luân lý hoặc phân tâm học để đi đến kết luận rằng bản tính nguyên thủy của con người vẫn chỉ là hoang dã. Đã là hoang dã thì đó không thể là tính thiện như quan niệm của Khổng Manh nữa, mà phải là mạnh được yếu thua, cái xấu sẽ lên ngôi. Bản tính sơ khởi của con người, qua hình ảnh đứa trẻ, phải là tính ác, gần với ý của Tuân Tử hay Hobbes. <br />
<br />
Về luân lý, cuộc đấu tranh giữa Ralph và Jack là đối đầu giữa Thiện và Ác. Ralph với bề ngoài đẹp như thiên thần, còn Jack thì khát máu như hình ảnh của ác quỷ. Chính trị hơn, Ralph đại diện cho dân chủ và tự do, Jack đại diện cho toàn trị và bạo lực. Khi đặt dưới diễn giải phân tâm học. Ralph, Jack và Piggy có thể xem như biểu tượng của Ego, Id và Superego. Trong đó, Ralph (Ego) như một trung điểm giữa một bên là vực thẳm bản năng của Tự ngã (Id) và một bên là lương tâm cao đẹp của Siêu ngã (Superego). Những hình ảnh cái đầu lâu cắm trên cọc, đám lửa, con "quái thú", hoang đảo, vỏ ốc, v..v.. đều là những biểu tượng quan trọng khác mà mỗi người đều có cách diễn dịch của riêng mình. <br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-9014231168323628192015-07-26T08:36:00.000-07:002015-07-26T08:37:15.164-07:00To Kill a Mockingbird - Harper Lee<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-UxyDoI4tqMc/VbT-M93C3ZI/AAAAAAAAAW4/qOC8zFeVSgI/s1600/11781627_10206883057411699_2409323906686591203_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="http://4.bp.blogspot.com/-UxyDoI4tqMc/VbT-M93C3ZI/AAAAAAAAAW4/qOC8zFeVSgI/s400/11781627_10206883057411699_2409323906686591203_n.jpg" width="300" /></a></div>
<br />
<br />
To Kill a Mockingbird được kể qua góc nhìn của một bé gái sáu tuổi sống ở một thị trấn tỉnh lẻ bang Alabama, Mỹ. Câu chuyện xoay quanh một số cư dân và sự kiện xảy ra trong thị trấn, mà cao trào là phiên tòa xét xử người thanh niên da đen bị buộc tộc hiếp dâm một cô gái da trắng. Bối cảnh của sách là thập niên 30, trong khi cuốn sách được viết vào đầu những năm 60 thế kỷ trước. Trong cả hai thời kỳ, người da đen vẫn còn bị đối xử phân biệt nặng nể trong xã hội Mỹ. Do đó, người đọc dễ nhận thấy luân lý, đúng-sai là chủ đề chính của cuốn sách. Ở đó, luật sư Atticus Finch, cha của cô bé dẫn chuyện, là nhân vật trung tâm và cũng là người hùng đứng giữa để tách bạch giữa cái sai và cái đúng. Atticus Finch biết rằng ông không thể thay đổi thành kiến của cộng đồng thông qua đại diện là bồi thẩm đoàn, để giải oan cho Tom Robinson, người thanh niên da đen, nhưng ông vẫn làm cho dù điều đó ảnh hưởng đến sự an toàn của gia đình.<br />
<br />
"It's a sin to kill a mockingbird.." là ẩn dụ mà mỗi người đọc sẽ có cách diễn giải khác nhau. Mockingbird là loài chim chỉ biết nhại tiếng con chim khác, và không làm hại ai. Ở đây, hình ảnh mockingbird có thể là đại diện cho những nạn nhân của thành kiến như Tom Robinson hoặc Boo Radley. Nhưng mặt khác "a sin to kill a mockingbird" cũng có thể là ẩn dụ rằng sự ngây thơ con trẻ bị đánh mất khi chúng phải chứng kiến bất công của xã hội, và thất bại của công lý quá sớm. Bên cạnh phiên tòa trên, Harper Lee còn kể nhiều câu chuyện khác của cư dân thị trấn Maycomb, trong đó đáng chú ý hơn cả là struggle của bà Duboise.<br />
<br />
Đây là một cuốn sách đáng đọc, vì cách viết và tiếp cận của Harper Lee khá tài tình. Lee kể chuyện qua tư duy và cái nhìn vừa cụ non vừa ngây thơ của một bé gái tỉnh lẻ, với ngôn ngữ và sự bình lặng của vùng Deep South, khiến người đọc dễ thư giản. Ngoài những cái hay trên, To Kill a Mockingbird không đem lại nhiều hứng cảm văn học của một cuốn sách lớn.<br />
<br />
VL <br />
<br />
<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-84991201339860812502015-03-24T19:39:00.003-07:002015-04-23T03:38:23.723-07:00Heart of Darkness - Joseph Conrad<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-o8bcKzIkJmk/VRIffLDpafI/AAAAAAAAAV0/Wh_snlqz-m0/s1600/11091275_10205930633001684_4752734836331762722_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-o8bcKzIkJmk/VRIffLDpafI/AAAAAAAAAV0/Wh_snlqz-m0/s1600/11091275_10205930633001684_4752734836331762722_n.jpg" height="300" width="400" /></a></div>
<br />
<br />
<i>Heart of Darkness</i> là một novella (truyện vừa) kể lại hành trình đi sâu vào trung tâm của nước Congo thuộc địa Bỉ vào thế kỷ 19. Trung tâm của Congo, trung tâm của Lục Địa Đen, nơi thời gian như dừng lại, cũng chính là điểm đến của chuyến hành trình đi tìm bổn lai diện mục của nội tâm mỗi người. Ở đó, mặt tốt và mặt trái của tính cách con người được khám phá và tách biệt rất tương phản.<br />
<br />
Conrad dùng truyện lồng trong truyện (framed narration) với người dẫn chuyện kể lại chuyến hành trình thông qua Marlow, thuyền trưởng tàu hơi nước của một công ty "khai thác" ngà voi. Trên đường đi qua những trạm trung chuyển, Marlow được biết về Kurtz, một đại diện khác của công ty đang hoạt động ở trạm sâu nhất trong rừng già Congo. Ấn tượng về con người đặc biệt này, Marlow cố tìm gặp Kurtz và trải nghiệm nhiều sự kiện lạ lùng. Chuyến hành trình này nói lên sự tham lam, bất nhân của chính sách bóc lột thuộc địa của vua Leopold ở Châu Phi, nhưng nó chỉ thực sự gợi hứng cảm văn chương khi được soi dưới ống kính tâm phân học.<br />
<br />
Những diễn giải dựa theo Freud cho thấy Marlow đại diện cho phần lý trí, luân lý của tâm trí con người (tức "ego") còn Kurtz, kẻ ám ảnh với ngà voi, là phần bản năng hoang dã (tức "id"). Có lẽ vì thế Marlow xem một số hành động của Kurtz rất "dã man". Chính Marlow khi nói chuyện với góa phụ của Kurtz (Intended) cũng thừa nhận mình không giống như Kurtz. Kurtz sẵn sàng vượt qua lằn ranh, còn Marlow thì không.<br />
<br />
Một số ý kiến khác phân tích câu chuyện dựa theo Jung thì đi sâu và phức tạp hơn. Theo đó, vùng đất tối tăm này là ẩn dụ của lý thuyết Jung về vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Còn chuyến hành trình vào sâu trong vùng tăm tối thì gợi ý đến quá trình Thành toàn bản ngã (Individuation). Đây là một quá trình mà vô thức cá nhân và vô thức tập thể dần biến chuyển thành ý thức và cuối cùng thống hợp trong tâm trí con người. Ở đây, Kurtz được xem như Bóng âm (Shadow), đại diện cho phần xấu xí của vô thức hoặc là toàn bộ vô thức. Trên hành trình khám phá bản thân và thành toàn bản ngã của mình, Marlow phải đối mặt với Kurtz, hay nói cách khác là phải đắm mình vào vô thức của chốn tối tăm, để vượt qua. Kurtz không chỉ là bóng âm cá nhân của Marlow, mà còn là bóng âm tập thể của toàn bộ chủ nghĩa đế quốc Âu Châu.<br />
<br />
Hẳn nhiên những lạm bàn trên về cách diễn giải theo tâm lý học chỉ dựa vào sự tìm hiểu sơ sài và khó tránh được thiếu sót. <i>Heart of Darkness</i> là một tác phẩm chứa đầy biểu tượng, ẩn dụ và mỗi người đọc đều có cách diễn dịch của riêng mình. Tuy nhiên, để thưởng thức cho trọn vẹn cuốn sách này người đọc cần rất kiên nhẫn, tập trung vì lối viết của Conrad với những giòng suy tưởng nội tâm bất tận, đôi khi bất ngờ đổi hướng mà không cần xuống dòng, sẽ làm đau đầu và nản lòng độc giả. Hơn nữa, tiếng Anh của Conrad thực sự phức tạp (có thể do Anh ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của ông) làm việc tiếp cận càng khó khăn hơn.<br />
<br />
VL<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-66716449071781672092014-10-27T06:49:00.000-07:002014-10-27T07:01:56.111-07:00Cathedral (Thánh Đường) - Raymond Carver<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-3SxpNuK33GA/VE0CEj0x8wI/AAAAAAAAAUc/jDVmCsLkIyc/s1600/10650055_10204641437892612_936215335771876798_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-3SxpNuK33GA/VE0CEj0x8wI/AAAAAAAAAUc/jDVmCsLkIyc/s1600/10650055_10204641437892612_936215335771876798_n.jpg" height="320" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Cũng như hai tập truyện ngắn trước, đối tượng của Carver trong <i>Cathedral</i> vẫn là những con người đại diện cho mặt trái giấc mơ Mỹ. Tuy nhiên, tập truyện ngắn <i>Cathedral</i> cho thấy một Carver khác hẳn với góc nhìn rộng hơn và phong cách thay đổi. Ở đó, nhân vật vẫn quẫy đạp trong những đổ vỡ, thất bại của cuộc sống, nhưng người đọc không còn thấy một không khí hoàn toàn ngột ngạt, bế tắc. Rõ ràng đây là cuốn sách mình thích nhất trong ba tập truyện của Carver, vì nó đem lại sự thỏa mãn và hy vọng. Nếu theo dõi cuộc đời thật của Carver, ta dễ thấy lý do của sự chuyển động sáng sủa này. Khoảng thời gian viết những truyện ngắn trong <i>Cathedral</i> là lúc cuộc sống Carver sang những trang mới khi bắt đầu sống chung với nhà thơ Tess Gallagher, người sau này trở thành vợ thứ hai của ông. Ngoài đời, Carver đã bỏ lại phần cuộc sống nghiện ngập, ngập ngụa sau cuộc đổ vỡ thứ nhất; trên trang giấy, ông ít nhiều từ bỏ luôn phong cách tiếp cận trước đây.<br />
<br />
Một cách tổng thể, nhận định của nhà phê bình Adam Meyer là rất thích đáng khi so sánh quá trình biến hóa của bút pháp Carver qua ba tập truyện trông giống như một đồng hồ cát. Với <i>Will You Please Be Quiet, Please?</i> phong cách của Carver chưa rõ ràng, còn bung rộng để định hình. Với <i>What You Talk About When You Talk About Love</i>, văn phong trở nên cô đặc, tối giản. Đến <i>Cathedral</i> thì mọi thứ lại mở rộng, rời dần sự tối giản và trở nên sáng sủa hơn.<br />
<br />
Trong phần lớn <i>Cathedral</i>, các câu chuyện xoay quanh chứng nghiện rượu. Các nhân vật bằng cách này hay cách khác cố tình cô lập mình với thế giới xung quanh, để trú ẩn vào rượu, cho dù họ rất cần sự cứu giúp của người khác. Nhưng càng tiếp xúc với sự giúp đỡ, họ càng chìm sâu và bế tắc hơn. Khác với các tập truyện trước, những người mắc kẹt, vô vọng này không hoàn toàn cô độc. Trong <i>Fever</i>, nhân vật chính không nghiện rượu nhưng leo lét tồn tại sau khi đã ly dị vợ, một mình nuôi con, bỗng tìm thấy sự cảm thông và ấm áp từ người giúp việc già (do chính cô vợ cũ giới thiệu). Người giúp việc già đóng vai cứu tinh, đã đem lại tia sáng hy vọng nơi cuối đường hầm, cũng như vai trò của người làm bánh trong truyện <i>A Small, Good Thing</i>. Truyện này được phát triển từ một truyện ngắn tương tự trong tập <i>What You Talk About</i>.. Có thể nói đây là truyện ngắn ấn tượng nhất trong toàn tập <i>Cathedral</i>: không khí câu chuyện căng thẳng, nuôi một cảm xúc thoi thóp nơi người đọc qua gần ba chục trang, đến đoạn cuối cả nhân vật lẫn người đọc đều được giải phóng một cách mạnh mẽ. Nếu đã quen với phong cách truyện ngắn Carver ở hai tập truyện trước, chắc hẳn ta sẽ khá ngạc nhiên với kiểu kết thúc này, cũng như sẽ ngạc nhiên với hình ảnh cuối truyện <i>Cathedral</i>, truyện ngắn chủ đề của toàn tập. Ở đó, người dẫn chuyện được một người mù khai sáng, hay nói thích đáng hơn là mở mắt, đưa đến một cái nhìn mới mẻ mà chưa bao giờ trong đời con người sáng mắt này được nhìn thấy. Khoảnh khắc đắt giá này lại được ví von với những khoảnh khắc của Sherwood Anderson. <br />
<br />
Có thể <i>Cathedral</i> là tập truyện mạnh mẽ, đem lại nhiều thỏa mãn khi đọc, nhưng đối với mình nó không được lắp ghép một cách tính toán, tỉ mỉ bằng một phong cách tối thiểu, mờ mịt như hai tập truyện trước. Và do đó không để lại nhiều băn khoăn.<br />
<br />
VL<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-46810987192195024012014-09-21T22:03:00.004-07:002014-09-21T22:09:39.570-07:00What We Talk About When We Talk About Love - Raymond Carver<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-LjA_pO4xDUQ/UwWF9fO-5yI/AAAAAAAAARM/xvpqqxRFla8/s1600/1613805_10202797812203122_1962785459_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-LjA_pO4xDUQ/UwWF9fO-5yI/AAAAAAAAARM/xvpqqxRFla8/s1600/1613805_10202797812203122_1962785459_n.jpg" height="240" width="320" /></a></div>
<br />
<br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">"Mình Nói Chuyện Gì Khi Mình Nói Chuyện Tình" là tựa tiếng Việt của “What We Talk
About When We Talk About Love”, tập truyện ngắn được xem là nổi tiếng nhất của Raymond
Carver. Nếu trong tập “Will You Please Be Quiet, Please?” trước đó, các nhân vật
đều cho thấy sự lạc lõng, bối rối, trì trệ, thì trong “What We Talk..” các trạng
thái bế tắc đều được đẩy xa hơn, đến mức bộc phát thành bạo lực. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Đương nhiên,
những hình ảnh bạo lực như dùng búa đập chết vợ, ném đá chết người, hay cảnh vớt
xác đều là những chi tiết dễ gây ấn tượng nhưng đó hoàn toàn không phải những
gì hay nhất của Carver trong tập truyện này. Cái đặc sắc của “What We Talk..”
là khả năng sắp đặt, lắp ghép các chi tiết và xây dựng một văn phong đặc trưng
vô cùng công phu của tác giả. Khi đọc các truyện ngắn của Carver, đặc biệt là
trong tập này, ban đầu tôi cảm thấy hụt hẫng nhưng đến lần đọc thứ hai thứ ba
thì bắt đầu nhận ra những khoảng trống có chủ đích. Có thể nói rằng Carver cố
tình xây dựng những tình tiết và kết thúc nó bằng một cách làm cho người đọc
như nuốt không trôi gì đó ở cổ. Giống như bạn đọc một câu văn bị chừa trống
những chỗ quan trọng và phải tự tìm từ thích hợp để điền vào. Đọc tập truyện
này, ta cảm thấy những đường dẫn và chi tiết bắt cầu của cách kể chuyện truyền
thống đều bị Carver loại bỏ không thương tiếc. Có lẽ vì vậy nhiều người đã gọi
văn phong của Carver là tối giản?<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Thế giới của
Carver là khoảng tối của đường hầm không có ánh sáng, của những con người vật vờ
với những vết thương cuộc đời. Những vết thương âm ỉ, nhức nhối của sự thất bại
và cô đơn khi gia đình tan vỡ khiến nhân vật chính trong “Viewfinder” sẵn lòng
mời người chụp ảnh dạo vào nhà. Tình huống này làm ta nhớ lại truyện người bán
máy hút bụi trong tập “Will You Please..” Nhưng trong trường hợp trước, người
chủ nhà có vẻ chỉ muốn sự có mặt của người salesman như một phương tiện lấp đầy
khoảng trống, trong khi nhân vật chính trong “Viewfinder” muốn mời người chụp
hình dạo què tay vào nhà để xem cách anh ta đối mặt và hành xử ra sao với vết
thương khuyết tật của mình. Đó có thể là cách người chủ nhà, với nỗi đau đổ vỡ
gia đình, làm dịu đi vết thương của chính mình khi quan sát một người khác đối
mặt với nỗi đau và không may của họ. Hành động quan sát có chủ đích này, cuối
cùng vẫn dẫn người quan sát quay về đối mặt với chính hình ảnh của mình, qua việc
anh ta thấy cái đầu của mình đang nhìn ra cửa sổ trong tấm hình của người thợ
chụp từ ngoài vào. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Cũng với mức
độ đau khổ tương tự, người chủ nhà bán garage sale trong “Why Don’t You Dance?”
lại chọn cách làm dịu vết thương của cuộc hôn nhân đổ vỡ bằng cách trưng bày nỗi
đau của mình cho bàn dân thiên hạ xem, qua việc đem tất cả đồ dùng trong phòng
ngủ, bàn ghế tủ giường bày hết ra sân nhà. Khi một cặp vợ chồng trẻ ghé vào
coi, cô vợ trẻ cho rằng ông chủ nhà bán garage sale này chắc hẳn là “desperate
or something”. Chi tiết này làm người đọc nhận ra sự vô vọng của người chủ nhà
với vết thương của mình, đến nỗi anh ta phải tìm cách trưng bày nó ra ngoài,
ngõ hầu chia bớt nỗi đau cho người khác như một phương cách cuối cùng để giải tỏa.
Đoạn hội thoại không ăn nhập nhau của cặp vợ chồng trẻ và giọng văn người kể
chuyện khô khốc, cộc lốc, đứt quãng gợi ý một liên tưởng từ nỗi bất hạnh của
người chủ nhà đến hình ảnh đổ vỡ của cặp vợ chồng trẻ trong tương lai. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Các truyện ngắn
khác trong tập này đều xoay quanh những ám ảnh vì đổ vỡ gia đình. Những ám ảnh
này có thể chính là kết quả của một tâm thức luôn muốn chối bỏ, tránh mặt cuộc
sống của thế giới nhân vật Carver. Ở đây, nhân vật của Carver cho thấy họ đã
cố biến đổi, thích nghi với đau thương và thất bại bằng cách
dịch chuyển sự quan tâm của họ vào những vấn đề khác. Nhân vật Dummy trong câu
truyện ấn tượng “The Third Thing That Killed My Father Off” là ví dụ rõ nhất. Là
một người thiểu năng, thiếu may mắn, mất khả năng diễn đạt bằng lời nói, Dummy
luôn lo sợ không thể giữ được người vợ của mình. Chênh vênh trong đời sống gia đình, bất lực trong kiểm soát người vợ, Dummy dịch chuyển sự quan tâm và bực bội của mình vào bể cá trầm bằng cách rào
bầy cá lại bằng hàng rào điện, bảo vệ chúng như báu vật, như thể anh đang ngăn
người vợ khỏi nguy cơ ngoại tình. Kết cục bi thảm của câu chuyện và lời bình của
một nhân vật: “Women..”, “That’s what a wrong kind of woman can do to you..” càng
cho thấy rõ những đổ vỡ gia đình không hẳn là nguồn cơn của những vết thương âm
ỉ của những con người đứng bên lề của giấc mơ Mỹ, như tất cả các nhân vật trong
truyện của Carver. Họ đã quá lạc lõng, mất liên hệ với bản thân, và không còn biết
đổ thừa cho ai, ngoài thất bại trong đời sống gia đình, để biện hộ cho cái thất bại chung to lớn hơn trong cuộc sống của
chính họ. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br /></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif";">VL<o:p></o:p></span></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-7680164937889097282013-12-24T04:33:00.000-08:002013-12-24T21:15:52.075-08:00Luật miễn trừ ngoại giao với 2 trường hợp gần đây của Ấn Độ và Việt Nam<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-raRVl1ITTbo/Url-N0K_5SI/AAAAAAAAAQw/I_-1bm934OQ/s1600/botero_xx_a_lawyer_1995_.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://2.bp.blogspot.com/-raRVl1ITTbo/Url-N0K_5SI/AAAAAAAAAQw/I_-1bm934OQ/s320/botero_xx_a_lawyer_1995_.jpg" width="226" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;"> </span><span style="font-size: 12pt;"> </span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;">Gần
đây dư luận thế giới và trong nước xôn xao với những vụ liên quan đến nguyên tắc
“miễn trừ ngoại giao” (diplomatic immunity) trong luật quốc tế. Cách đây không lâu, một vị nữ quan chức
lãnh sự của Ấn Độ tại Mỹ đã bị câu lưu và lục soát vì khai gian mức lương của một
người giúp việc. Người dân ở Ấn Độ biểu tình phản đối Mỹ vì họ nghĩ rằng vị
quan chức này bị phân biệt đối xử. Chính phủ Ấn Độ cũng cho rằng đáng lẽ ra Mỹ
phải tôn trọng nguyên tắc miễn trừ ngoại giao được quy định trong Công ước
Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961 của Liên hiệp quốc. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;">Thật
ra, Liên hiệp quốc có hai bộ luật quy định cách đối xử cho những quan chức và
nhân viên ngoại quốc. Thứ nhất là Công ước <st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on">Vienna</st1:place></st1:city> về quan hệ ngoại giao 1961, chủ yếu áp
dụng cho người thuộc đại sứ quán. Thứ hai là Công ước <st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on">Vienna</st1:place></st1:city> về quan hệ lãnh sự 1963, áp dụng cho
những người làm việc trong các lãnh sự quán. Có thể định nghĩa miễn trừ ngoại
giao như một quy tắc để bảo vệ viên chức ngoại giao của nước ngoài không bị xét
xử bởi pháp luật của nước sở tại. Quy tắc này giúp đảm bảo công việc ngoại giao
giữa hai nước không bị ảnh hưởng. Khác với Công ước 1961, bộ luật 1963 cho lãnh
sự chỉ cung cấp một mức độ miễn trừ ngoại giao hạn chế. Những nhân viên lãnh sự
chỉ được miễn trừ ngoại giao khi chứng minh được họ đang thi hành công vụ trong
lúc phạm tội. Trong trường hợp của nữ lãnh sự Ấn Độ, rõ ràng là việc mướn người
giúp việc không liên quan gì đến công vụ của lãnh sự quán, mà chỉ là việc cá
nhân. Có thể nói trong trường hợp này bên phía Mỹ không cho nữ lãnh sự Ấn Độ
này hưởng quyền miễn trừ ngoại giao là đúng luật.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;">Ở
một vụ khác gần hơn, đại sứ Việt Nam ở Thổ Nhĩ Kỹ là ông Nguyễn Thế Cường bị
câu lưu ở sân bay Đức vì đem số tiền nhiều quá quy định. Câu hỏi ở đây là ông đại
sứ này có được nhận miễn trừ ngoại giao của luật quốc tế không? Có người cho rằng
ông là đại sứ Việt <st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>
ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng lại phạm luật và bị câu lưu ở Đức (một nước thứ ba) thì ông
không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao. Có thể điều này nghe cũng hợp
logic, nhưng trong thực tế là không chính xác. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;">Trước
hết, ông Cường là đại sứ nên Công ước <st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on">Vienna</st1:place></st1:city>
về quan hệ ngoại giao 1961 sẽ được áp dụng. Công ước này cho các quan chức và
nhân viên ngoại giao được hưởng một quyền miễn trừ ngoại giao rất lớn. Không những
bản thân các vị quan chức ngoại giao mà cả gia đình của họ đi cùng đều được miễn
trong trường hợp phạm tội. Vì vậy, nếu ông Cường phạm luật ở nước ông ta làm đại
sứ thì khả năng lớn là ông ta sẽ được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao trong hầu
hết trường hợp. Chỉ khi ông phạm những tội nặng nề như giết người, hoặc Việt
Nam chủ động bãi bỏ quyền miễn trừ ngoại giao của ông, thì pháp luật của Thổ
Nhĩ Kỳ mới có thể đụng đến ông ta. Tuy nhiên, ở đây ông Cường phạm luật ở Đức,
một nước thứ ba. Về trường hợp này, điều 40 của Công ước Vienna 1961 nói rằng nếu
một nhà ngoại giao đặt chân lên một nước thứ ba trong hành trình đi đến nhiệm sở
của mình, hoặc trên đường quay về đất nước quê hương, thì nước thứ ba phải đảm
bảo quyền miễn trừ ngoại giao của người này, để không ảnh hưởng đến hành trình
của ông ta. Ngoài ra, trong case <i>United
States v. Rosal</i> (1960), tòa án đã công nhận rằng một nhà ngoại giao đang
quá cảnh (diplomat-in-transit) sẽ được hưởng miễn trừ ngoại giao. Như vậy, theo
bộ luật và theo án tiền lệ, có khả năng rất cao rằng ông Cường đại sứ Việt Nam
tại Thổ Nhĩ Kỳ được hưởng miễn trừ ngoại giao tại Đức. Có nghĩa là an ninh sân bay Đức không có quyền câu lưu ông này vì tội đem quá tiền quy định. Đó là vì chúng ta biết ông
Cường chỉ quá cảnh tại Đức trên đường từ Thổ Nhĩ Kỳ về Việt Nam. Nếu ông Cường
không quá cảnh tại Đức trên hành trình công việc, mà đến Đức với mục đích cá
nhân dài ngày thì có thể đó là một câu chuyện khác, và có khả năng ông sẽ không
được hưởng miễn trừ ngoại giao. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 12pt;">VL</span></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-53437279133503974112013-12-01T06:17:00.001-08:002013-12-01T06:17:20.185-08:00Will You Please Be Quiet, Please? - Raymond Carver<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/--Rfezx3VhdM/UptCYaCRKUI/AAAAAAAAAQc/g4g1e0x223E/s1600/541821_10202227810953447_736820377_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="240" src="http://3.bp.blogspot.com/--Rfezx3VhdM/UptCYaCRKUI/AAAAAAAAAQc/g4g1e0x223E/s320/541821_10202227810953447_736820377_n.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
<br />
"Em Làm Ơn Im Đi, Được Không?" là tên bản tiếng Việt của tập truyện ngắn đầu tiên của Raymond Carver. Ở đây, Carver tập trung mô tả đời sống của lớp người Mỹ bình dân bằng kỹ thuật viết truyện ngắn rất khác lạ so với truyền thống. Qua ngòi bút Carver, người đọc hình dung ra một hiện thực lộm cộm, chông chênh, vô định từ những thân phận người lạc lõng trong một giấc mơ dang dở.<br />
<br />
Xuyên suốt tập truyện là những câu chuyện đời thường mà nhân vật đa số đều bộc lộ những đặc điểm cho thấy họ dần mất phương hướng với cuộc sống, mất nhận thức về bản thân, và mất luôn sợi dây liên hệ với tha nhân. Với những nhân vật này, họ dường như bị một sức ì níu chân, một sức ì của giấc mơ Mỹ lý tưởng, khiến cuộc sống của họ tuy có vẻ bình thường nhưng lại rất bất thường.<br />
<br />
Trong "Fat", qua cái nhìn của người nữ hầu bàn, hình ảnh người thực khách béo mập được kể lại thật mỉa mai. Anh ta dùng đại từ "chúng tôi" để đối thoại với những người phục vụ, trong lúc ăn hết món này đến món khác. Cơn đói của anh béo này không hẳn chỉ là cơn đói thức ăn mà còn là nỗi thèm khát sự cảm thông, thèm thuồng một người bạn. Người nữ hầu bàn và người bạn tên Rudy đều không đủ nhạy cảm để thấy được điều này. Cả hai trở về nhà, đầu óc không thôi nghĩ về hình ảnh người khách béo, nhưng lại không nhận ra bản thân chính họ cũng lạc lõng, đáng thương không kém.<br />
<br />
Trong "Are You A Doctor?", Arnold nhận một cuộc gọi từ người đàn bà cô đơn, không bình thường, và sau vài cuộc đối thoại lạ lẫm với người này, Arnold tìm đến nhà cô ta. Những ràng buộc của một người đàn ông phương Tây trưởng thành, có vợ không cản nổi sự thèm khát một cái mới, một sự thay đổi. Tuy nhiên, cả hai không đi đến cùng với hành vi của mình. Rõ ràng sự thèm muốn của họ không phải là thú vui xác thịt. Ở đây, người đàn bà cô đơn và Arnold đều đáng thương như nhau.<br />
<br />
"Jerry and Molly and Sam" viết khá lạ, khi đến gần cuối vẫn chưa thấy Jerry, Molly hay Sam xuất hiện. Trong truyện, nhân vật chính Al dồn sự bất mãn với cuộc sống, công việc và gia đình lên con chó Suzy và chở nó vất đi ở một nơi xa nhà. Nhưng khi Al nhận ra sự ích kỷ của mình và nỗi buồn của vợ và bọn trẻ, anh ta quay lại cố tìm con chó. Tuy nhiên, con chó Suzy thiếu trí khôn đã không còn nhận ra Al nữa. Cả câu chuyện là một chuỗi những việc không suôn sẻ; ngay cả hành động vất bỏ con chó cũng là một hành động không hoàn tất.<br />
<br />
Cái cảm giác "loser" mà nhân vật Al mang lại còn được thấy ở nhiều nhân vật khác trong suốt tập truyện. "Sixty Acres" kể về Lee Waite, người chủ đất đi đuổi những tay săn thú lậu xâm phạm miếng đất của mình. Ông ta âm ỉ một nỗi bất an và phải gồng mình khi phải giáp mặt với kẻ lạ. Lee muốn cho thuê miếng đất để bớt gánh nặng kiểm soát nhưng lại hoàn toàn không rõ tí nào về giá trị miếng đất của mình.<br />
<br />
Một sự mông lung trì trệ tương tự diễn ra trong truyện "Collectors". Người chủ nhà đang thất nghiệp chờ đợi thư từ bưu điện, nhưng lại bị cuốn hút một cách bị động vào sự xuất hiện của người tiếp thị máy hút bụi. Người tiếp thị già, béo, bệnh, mang dép, và biết về W. H. Auden cũng như Rilke, muốn thuyết phục người chủ nhà mua máy bằng cách hì hục hút bụi cả ngôi nhà của anh ta. Trong khi đó người chủ ngồi quan sát và nghĩ rằng anh ta chẳng cần mua máy hút bụi vì dù sao cũng sắp dọn đi, hơn nữa anh ta không có tiền. Cả hai đều hành động một cách bị động, quán tính. Có lẽ cả hai con người đều hiểu rõ sự vô ích của cuộc gặp gỡ, nhưng vẫn muốn níu kéo một chút hơi ấm người.<br />
<br />
Những truyện khác trong tập này tiếp tục kể về motif tương tự của những con người lạc lõng, mất kết nối, trì trệ, bất mãn, bị đè nén trong một xã hội mặt trái của giấc mơ Mỹ. Tuy nhiên, cái hay của Carver là cách kể chuyện. Nhiều người bảo Carver là bậc thầy về phong cách truyện tối giản (minimalism), nhưng chính Carver có lần đã phủ nhận sự gán ghép này. Dù sao thì cách viết trong hầu hết truyện ngắn của tập "Will You Please.." đều rất quái dị nhưng cũng rất hấp dẫn. Có vẻ như chỉ có truyện ngắn cuối cùng "Will You Please Be Quiet, Please?" là được kể hơi bình thường một chút. Trong truyện, người chồng Ralph nghe người vợ Marian thú nhận ngoại tình. Ralph nổi giận, nhưng có vẻ như anh ta không giận vì cuộc ngoại tình, mà giận vì thấy ghê tởm với sự thua kém về mức độ thèm khát tính dục của mình so với người vợ. Câu nói "Will you please be quiet, please?" không hẳn là nói với người vợ, mà có thể Ralph muốn nói với tâm trí hỗn loạn của mình. Cuối cùng, truyện kết thúc với cảnh Ralph và vợ làm tình, cũng là lúc Ralph cảm thấy rõ rệt sự thay đổi chạy suốt thân mình. Khoảnh khắc của thay đổi này có sức nặng gần như những khoảnh khắc khai sáng trong truyện ngắn của Sherwood Anderson, người mà Carver ngưỡng mộ. <br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-46018933701193145582013-11-07T02:58:00.001-08:002013-11-07T02:58:10.137-08:00Chess Story (Kỳ Thủ) - Stefan Zweig<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-OQLu39-7SVU/UntkE4ftBcI/AAAAAAAAAQM/VVNsiD-e5bs/s1600/534355_10202033188768014_539214394_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://1.bp.blogspot.com/-OQLu39-7SVU/UntkE4ftBcI/AAAAAAAAAQM/VVNsiD-e5bs/s320/534355_10202033188768014_539214394_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
Chess Story là truyện vừa khá nổi tiếng của Stefan Zweig, nhà văn Áo gốc Do Thái. Chess Story còn được biết như Chess, hay The Royal Game trong tiếng Anh. Cuốn này là tác phẩm cuối cùng của Zweig trước khi ông và vợ tự tử.<br />
<br />
Truyện tả 2 nhân vật đều có tài đánh cờ xuất chúng. Một bên là vị vô địch cờ vua thế giới, một kẻ quái lạ, tâm trí phát triển không toàn vẹn, cung cách bần nông, nhưng lại có khả năng đánh cờ thiên phú. Một bên là người trí thức, luật sư, nhờ hoàn cảnh ngặt nghèo, thêm vào khả năng trí tuệ sắc sảo, đã luyện tập được trình độ cờ cao siêu. Có vẻ như vị vô địch cờ vua bần nông xuất hiện lúc đầu chỉ để làm nền cho câu chuyện của người đánh cờ trí thức, một câu chuyện gân guốc, rất "intense". Ở đó, con người đối mặt với sự cô độc khủng khiếp và để tồn tại họ phải đẩy tâm trí đến những giới hạn cuối cùng. Tại những giới hạn đó, con người nhận ra kẻ duy nhất để họ đánh bại, không sớm thì muộn, vẫn là chính mình.<br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-16199086919822422152013-10-24T02:45:00.001-07:002013-10-24T06:07:43.086-07:00Winesburg, Ohio - Sherwood Anderson<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-rf3FlHyl1eY/UmjqS1UsETI/AAAAAAAAAP8/ByJiqQa5UUg/s1600/1385749_10201913007443556_391736767_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://2.bp.blogspot.com/-rf3FlHyl1eY/UmjqS1UsETI/AAAAAAAAAP8/ByJiqQa5UUg/s320/1385749_10201913007443556_391736767_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Winesburg, Ohio có thể xem như một tập truyện ngắn với 21 câu chuyện về những mảnh đời khác nhau trong một thị trấn vùng Midwest nước Mỹ. Cuốn sách như một bức tranh miền quê, tiềm tàng dưới màu sắc hiu quạnh là một sức bộc phát mạnh mẽ, một nét đẹp được cho là mang hơi hướng nghệ thuật Biểu Hiện (Expressionist art). Tuy nhiên, nét đẹp ẩn giấu này thực sự khó tiếp cận với cách viết không cần cốt truyện của Sherwood Anderson.<br />
<br />
Trong câu chuyện mở đầu, người kể cho ta biết không có một thực tế nhất định, thay vào đó có nhiều cách nhìn đời khác nhau, mà cách nhìn nào cũng hợp lệ. Nhưng con người chỉ muốn nhìn đời từ một điểm cố định. Cái nhìn lệch lạc về thế giới này làm biến dạng hình người, và làm mỗi người biến thành một grotesque, một nhân vật bị vẽ méo mó đi, kiểu như những hình vẽ trên hang đá thời tiền sử (chữ grotesque từ grotto là hang động). Winesburg, Ohio kể về những nhân vật như vậy.<br />
<br />
Có quá nhiều nhân vật trong 21 câu chuyện của Winesburg; nhiều nhân vật được mô tả nhạt nhòa nên thật khó nhớ tên. Tuy nhiên, một số nhân vật được vẽ đúng như một grotesque với những méo mó, ẩn uất khá ấn tượng. Các câu chuyện của từng số phận đều tách biệt, chỉ liên hệ với nhau qua George Willard, một nhà báo trẻ chuyên đi nghe ngóng tin tức của thị trấn. Hầu như mọi người trong Winesburg đều tìm đến George Willard, hoặc George Willard tìm đến họ, để trút bầu tâm sự và phần lớn những cao trào, những bộc phát hay ho đều xuất phát từ đây.<br />
<br />
Anderson cho biết mục đích viết của ông là đem lên bề mặt những chiều sâu bị ẩn giấu của suy nghĩ và cảm xúc trong từng nhân vật, những đại diện cho lớp người Mỹ thời đại của ông. Anderson cho rằng trong mỗi con người là một giếng sâu của suy tưởng mà trên đó đậy chặt một cái nắp sắt nặng nề. Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là phá vỡ cái nắp đậy này để một sự giải phóng, vượt thoát xảy ra. Do đó, ông viết những truyện ngắn không cốt truyện, chủ yếu tập trung vào một khoảnh khắc dữ dội của cảm xúc. Những khoảnh khắc này, như một sự khai minh, một giây phút bùng thoát, phá vỡ bề mặt nhàm chán, là điểm đặc sắc của Winesburg: một phụ nữ chạy trần truồng trên cỏ trong mưa, một linh mục đấm vỡ cửa kính nhà thờ, một tiếng gào thét giải tỏa trong đêm tối, một cú đấm nổ đom đóm từ sự dồn nén, ẩn uất, v..v.. Những câu chuyện Winesburg làm nên sức mạnh từ những hình ảnh phóng đại, biến dạng mà qua đó một nhân vật được bộc lộ thấu suốt tâm can hoặc một tiếng thét của đau đớn, ẩn uất được nghe thấy. Theo một số người, "Expressionism" là từ thích hợp để nói về nghệ thuật của Anderson. Vì cũng như một số nghệ sĩ sân khấu và hội họa cùng thời, Anderson chọn cho mình cách diễn tả nghệ thuật bằng sự biểu hiện ra bên ngoài những tình cảm riêng tư nhưng dữ dội của cả người nghệ sĩ và nhân vật.<br />
<br />
Một trong những chi tiết ngoại hình nhân vật làm nên đặc sắc của nghệ thuật Biểu Hiện trong Winesburg là đôi tay. "Hands" là tựa đề của câu chuyện đầu tiên, một bi kịch của người thầy giáo tiểu học, người luôn cố vươn ra, với đến và chạm vào người khác qua đôi bàn tay, nhưng mục đích lại bị hiểu lầm. Ở một chuyện khác, đôi tay của Wing Biddlebaum được miêu tả như đôi cánh chim bị cầm tù. Trong "Respectability", nhân vật Wash Williams trông như một con khỉ đột xấu xí, dơ bẩn, ngay cả tròng trắng mắt của hắn nhìn cũng dơ. Tuy nhiên, hắn lại chăm sóc kỹ đôi tay, bộ phận duy nhất trên người hắn lành lặn và nhạy cảm. Ở đây, đôi bàn tay bộc lộ nhu cầu sâu sắc của mỗi cá nhân để vươn ra, liên kết với chung quanh. Có lẽ không có hình ảnh nào ấn tượng hơn đôi tay của linh mục Curtis Hartman, người đã đấm vỡ cửa kính nhà thờ trong một phút giây bùng phát cảm xúc, khi thử thách giữa dục vọng cô đơn và sự bó buộc tôn giáo đẩy ông đến giới hạn. Đôi tay đẫm máu của linh mục và những đôi bàn tay khác của Winesburg đại diện cho nỗi thèm khát ngặt nghèo của những nhân vật trong nỗ lực vươn ra, kết nối với thế giới bên ngoài.<br />
<br />
Tóm lại, Winesburg, Ohio có thể là một cuốn sách chán và tối tăm, nhưng vẫn có nhiều khoảnh khắc đáng giá. Trong thực tế, đây là một tác phẩm có ảnh hưởng trong văn chương Mỹ. John Updike cho rằng niềm say mê của Anderson trong việc theo đuổi những ẩn uất trong thị trấn miền quê Ohio đã mở ra những Michigan của Hemingway và Mississippi của Faulkner.<br />
<br />
VL<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-45465762516114813962013-10-10T09:16:00.001-07:002013-10-10T21:55:45.504-07:00Metamorphosis (Hóa Thân) - Franz Kafka<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-eUoBaou0oNE/UlbOjcZFTuI/AAAAAAAAAPk/8nVzyfVHxgU/s1600/1391650_10201824583153004_1394891791_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="http://2.bp.blogspot.com/-eUoBaou0oNE/UlbOjcZFTuI/AAAAAAAAAPk/8nVzyfVHxgU/s400/1391650_10201824583153004_1394891791_n.jpg" width="300" /></a></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Với tôi, lần đọc
Nguyễn Huy Thiệp cách đây hơn 2 năm và Kafka cách đây không lâu là hai lần
được khai sáng trong việc đọc văn chương với những ấn tượng nặng nề. Tác phẩm
Kafka không nhiều nhưng toàn kiệt tác, trong số đó nổi bật nhất chắc hẳn là
truyện Metamorphosis, hình như được dịch ra tiếng Việt là Hóa thân? <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Trong những
bản tiếng Anh mà tôi có thì bản dịch của anh em Willa và Edwin Muir có lẽ nổi tiếng nhất, vì chính họ đã dịch Kafka từ tiếng Đức
sang tiếng Anh từ rất sớm. Bản dịch của hai anh em Muir đang được Vintage sử dụng và đây cũng là bản tôi đọc. Sau đó tôi có xem sơ qua những bản
dịch khác thì thấy văn phong hầu như không thay đổi, ngoại trừ cách chọn từ ví
dụ như “insect” thay bằng “vermin”, v..v.. Bài này sẽ nói về đoạn mở đầu ấn
tượng của truyện và hai sự giống nhau của Hóa thân với những truyện khác trong
quá khứ. Những điểm này được bàn đến trong các bài phê bình trong cuốn Norton
hình trên.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Metamorphosis
là một câu chuyện hóa thân với những chồng chéo nhân dạng và những hình ảnh ẩn
dụ có nhiều cách hiểu. Suốt truyện từ mở đầu đến kết thúc không có bất cứ giải
thích nào về việc tại sao Gregor lại biến thành côn trùng. Rõ ràng, điều này
không quan trọng đối với Kafka, và hơi có màu sắc hư vô, siêu thực, rất
Kafkasque. Đoạn đầu của Hóa thân là những trang viết thiên tài. Dòng nhận thức
của nhân vật chính Gregor cuốn quắp nhận thức của độc giả trôi đi một cách quái
đản và rất tự nhiên. Không rõ nguyên bản thế nào, nhưng Anh ngữ rõ ràng quá
thích hợp để diễn văn Kafka với những mô phạm trong cấu trúc câu và sự chính
xác của từ ngữ, từ đó toát lên vẻ chính thống/mỉa mai đặc trưng của giọng văn
Kafka, mà ta có thể thấy rõ hơn trong In The Penal Colony. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Phần lớn sự
mỉa mai và đặc sắc của truyện này nằm trong phân cảnh Gregor nỗ lực tìm cách ra
khỏi giường. Hình hài côn trùng quái đản của mình làm anh ta thật khó xoay trở.
Nhưng dòng suy tưởng của Gregor chỉ hướng đến công việc và nỗi lo lắng lớn nhất
của Gregor là với hình dạng mới sẽ làm anh ta trễ chuyến tàu đến sở làm. Dòng
nhận thức của Gregor quá tỉnh bơ và phi lý. Chẳng lẽ sự hóa thân từ người thành
bọ chưa đủ kinh khủng, chấn động để đầu óc tập trung vào đó? Chi tiết này làm người
đọc mất thoải mái và phải tư duy. Hình ảnh người/bọ này được giới khoa bảng mổ
xẻ phức tạp với những giả thiết về nhân dạng kép; hay hình ảnh này được xem như
một cuộc hóa thân chưa hoàn toàn với tâm trí và thể xác vẫn còn thuộc về hai bản
thể tách biệt của người và bọ (cuộc hóa thân tiếp tục theo thời gian khi Gregor
dần quên đi tính người và hoàn tất ở cuối truyện).<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Lời giải
thích cho sự phi lý trong suy nghĩ của Gregor lúc vừa tỉnh dậy chỉ có thể từ lối
sống công nghiệp máy móc. Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp ở phương Tây, lối sống
căng thẳng đã biến đổi một số người. Họ bị huấn luyện để nỗi sợ bị mất việc lấn
át những nhu cầu bản thân. Thiếu tôn trọng bởi người chủ, họ trở thành những
cái máy, những thân phận bị ruồng rẫy, những kẻ ngoại cuộc. Ở đây, Gregor trở
nên một cỗ máy tự động, chạy theo quán tính đến nỗi anh ta không thể thấy được
ngay cả sự hóa thân của mình. Rõ ràng đây là một quá trình giải nhân, phá
vỡ con người.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;">Khá thú vị
là hình ảnh hóa thân trong Metamorphosis có thể làm liên tưởng đến một truyện sớm
hơn của Kafka là Wedding Preparations in the Country. Trong truyện này nhân vật
Eduard Raban tưởng tượng anh ta phân thân ra làm hai bản thể khác nhau: một con
bọ khổng lồ trùm chăn nằm nhà còn lớp vỏ con người đi về miền quê để làm đám cưới.
Cái lạ ở đây là bản thể của Raban dưới dạng con bọ đem đến cảm giác bảo vệ, ấm
áp chứ không hề gớm ghiếc. Raban cảm thấy là chính mình dưới lớp vỏ cứng, trần
trụi, nhưng thỏa mãn, còn lớp vỏ con người như một bộ cánh rỗng ruột, không ý
nghĩa, vô dụng, thay mặt anh ta hòa vào dòng chạy đông đúc của những bộ cánh
khác để thực hiện những giao tiếp xã hội. Có thể, Metamorphosis đang biến giấc
mơ của Raban (hoặc Kafka) thành hiện thực.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12.0pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12pt;">Một phân tích lạ khác cũng liên quan đến giấc mơ thú vật này là hình ảnh
người đàn bà khoác lông thú được lồng vào khung tranh treo trang trọng trong
phòng Gregor. Nhiều nghiên cứu chỉ ra sự trùng hợp giữa hình ảnh người phụ nữ
lông thú, cũng như một phần cốt truyện Hóa thân, với tác phẩm Venus in Furs
(1870) của Sacher-Masoch. Điểm mấu chốt ở đây là sự giống nhau giữa hình ảnh
lông thú trong hai tác phẩm. Lông thú ở đây là ẩn dụ cho sự thèm khát giới
tính, có thể hiểu theo Freud khi lông thú gợi cho bái vật (fetish) nhớ đến bộ
phận sinh dục người mẹ và chùm lông. Do đó, Gregor có thể chất chứa một thèm
khát tình ái nam nữ qua việc nâng niu, cắt và đóng khung bức hình người phụ nữ
khoác lông thú. Khung hình này thể hiện sự ngăn cách nỗi thèm khát của Gregor với
giấc mơ nam nữ, vì ta được biết trong truyện rằng anh vẫn còn độc thân. Hơn nữa,
việc đóng khung bức hình như là nâng hình ảnh người đàn bà lên tầm của một thứ
nghệ thuật mà Gregor không thể thực sự với tới. Trong đoạn mẹ và em gái Gregor
dọn phòng và đem đồ đạc của anh ta đi, Gregor gấp gáp chọn một thứ đồ để bảo vệ,
và bản năng khiến anh chọn bức hình đóng khung. Gregor, dưới hình dạng một con
bọ/gián khổng lồ, dán mình lên mặt kiếng của khung hình để ngăn người ta đem nó
đi. Ở đây, tiếp xúc thân xác với nghệ thuật khiến Gregor thỏa mãn khoái cảm,
khi mặt bụng nóng hổi của thân xác bọ dán lên mặt kiếng mát lạnh của khung hình
người đàn bà lông thú. Chính cái lớp kiếng ngăn cách Gregor với hình ảnh nghệ
thuật, với thèm khát nam nữ, lại chính là nguồn khoái cảm. Điều này có thể làm
người đọc liên tưởng đến những kỳ quái trong cuộc đời Kafka, khi ông có vẻ luôn
cố tình tạo ra những hoàn cảnh khó khăn để phục vụ cho cảm hứng văn chương của
mình. Những ví dụ khá rõ là quan hệ cha con và quan hệ nam nữ (những lèng èng với
Felice, vị hôn thê năm lần bảy lượt) của Kafka.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-family: Arial; font-size: 12pt;">VL </span></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-32877090196299914652013-09-24T05:39:00.000-07:002013-09-24T05:40:40.338-07:00Of Mice and Men (Của Chuột và Người) - John Steinbeck<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-iJTBOCyYRIk/UkF_DG-GscI/AAAAAAAAAPU/QxuPdVStD04/s1600/603901_10201720788678207_1735945783_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://3.bp.blogspot.com/-iJTBOCyYRIk/UkF_DG-GscI/AAAAAAAAAPU/QxuPdVStD04/s320/603901_10201720788678207_1735945783_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Đây là một truyện vừa, khá mỏng và là tác phẩm được yêu mến nhất của Steinbeck ngoài Chùm nho. Cũng như Chùm nho và một truyện khác tên là In Dubious Battle, Của Chuột và Người mô tả những số phận người giữa cuộc Đại Khủng Hoảng ở nước Mỹ đầu thế kỷ trước.<br />
<br />
Sở dĩ truyện này nổi tiếng như vậy vì nó được dựng thành kịch và phim rất nhiều lần. Nhiều người cho là kết cấu câu chuyện được xây dựng rất thuận tiện để chuyển lên sân khấu. Trong Của Chuột và Người, những ước mơ, tình người và bi kịch được đẩy đến tận cùng bằng tài kể chuyện của một Steinbeck đang đạt đến đỉnh cao.<br />
<br />
Giấc mơ của George, Lennie và những nhân vật cùng khổ khác là làm việc chăm chỉ, giành giụm đủ tiền mua một mảnh đất của riêng mình. Ước mơ này không hẳn chỉ là "giấc mơ Mỹ" vào thời Đại Khủng Hoảng, mà còn là mơ ước của tất cả mọi người. Truyện tạo sự đồng cảm với người đọc, vì ai cũng có một ước mơ của riêng mình. Nhưng con đường biến ước mơ thành sự thật luôn có những vật cản oái oăm; tấn bi kịch xảy ra trong truyện đã ngăn giấc mơ đổi đời của những người lao động cùng khổ.<br />
<br />
Dù sao, tình bạn và mối quan hệ tương trợ của George và Lennie làm người đọc cảm động cũng như gợi không ít tò mò. Tại sao George phải dính dáng đến một người tâm trí bất ổn như Lennie? Ở đây, vượt lên trên những tầm thường, George cần một người để quan tâm và ban phát tình cảm, để anh ta còn có thể cảm nhận tính người của mình chưa chết hẳn. Chứng kiến những số phận cô đơn đến khô khốc của nhiều kẻ làm thuê lang thang khắp các trang trại miền Salinas bắc California, George hiểu, bằng bản năng của một kẻ thừa khôn ngoan, rằng chỉ có tình người mới giúp con người đứng vững.<br />
<br />
Việt LêViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-86804264987497310072013-08-12T08:15:00.001-07:002013-08-13T23:29:24.772-07:00The Pearl (Viên Ngọc Trai) - John Steinbeck<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-YrXs4l0eYCI/Ugj66_-Gx5I/AAAAAAAAAPA/g1Lcjmq32MM/s1600/1146700_10201414752027482_15896951_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://1.bp.blogspot.com/-YrXs4l0eYCI/Ugj66_-Gx5I/AAAAAAAAAPA/g1Lcjmq32MM/s320/1146700_10201414752027482_15896951_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
The Pearl là một truyện vừa, mỏng hơn cả Of Mice and Men (Của Chuột và Người). Cuốn này được viết vào giai đoạn Steinbeck đã vượt qua đỉnh cao của sự nghiệp, chỉ vài năm sau tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: The Grapes of Wrath (Chùm Nho Uất Hận). Câu chuyện viên ngọc trai huyền thoại được mượn từ chuyện dân gian Mexico, với nhân vật chính là một thợ lặn trẻ và nghèo mạt tên là Kino. Đúng vào lúc cuộc sống chạm đáy, Kino bất ngờ mò được viên ngọc trai vĩ đại sẽ làm thay đổi cuộc đời của anh và vợ con.<br />
<br />
Cũng như những tác phẩm tiêu biểu khác của Steinbeck, The Pearl có giọng kể hấp dẫn, thu hút của một bậc thầy. Một khi đã đọc thì khó mà dừng lại. Cái ấn tượng nhất của The Pearl đó là tính nhạc kịch khá rõ rệt với những giai điệu rất Mễ, dẫn dắt người đọc theo các sắc thái cảm xúc của Kino. Khi Kino hướng về người vợ Juana và đứa con nhỏ Coyotito, thì trỗi dậy điệu nhạc Gia Đình ấm áp. Cảm thấy nguy hiểm, điệu nhạc của Cái Ác văng vẳng từ xa. Có khi cả hai giai điệu đấu tranh với nhau giành giật, xen lẫn vào đó là những điệu nhạc khác.<br />
<br />
Đâu đó trong tác phẩm, ta cũng thấy được điệu nhạc "Đỏ" của Steinbeck, nhưng còn ngập ngừng, chưa rõ như trong các tiểu thuyết ở thập niên 30 trước đó. Theo tôi, là hơi vô lý khi một số câu thoại có vẻ trau chuốt, mang tính vượt giai cấp được nói lên từ những người lao động, ít học như Kino. Ngoài ra, tham vọng nói lên một cái gì đó về lòng tham con người, hay chủ nghĩa vật chất của tác giả cũng chưa được khắc họa rõ ràng trong một cuốn sách quá ngắn. Tuy nhiên, Steinbeck là một nhà văn dễ tiếp cận và cách kể chuyện của ông thì đúng là đạt đến tầm kinh điển. <br />
<br />
Bonus một hình chế có lẽ lấy cảm hứng từ The Pearl của Steinbeck với những "the song of Family", "the song of Evil", v..v.. (người Mễ ở Mỹ nổi tiếng với nghề cắt cỏ) :D<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-yh6VDiLwznc/Ugj20LsvQsI/AAAAAAAAAOw/bOJijCZqCIY/s1600/1095051_578242268886388_194692202_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="http://4.bp.blogspot.com/-yh6VDiLwznc/Ugj20LsvQsI/AAAAAAAAAOw/bOJijCZqCIY/s400/1095051_578242268886388_194692202_n.jpg" width="252" /></a></div>
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-76079274935404226652013-08-04T02:43:00.000-07:002013-08-04T02:48:40.019-07:00Đêm Dài Một Đời - Lê Tất Điều<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-mxFdsE5izrg/Uf4fsg8JttI/AAAAAAAAAOg/dk5LIe42ArE/s1600/995773_10201357909606457_710007140_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://3.bp.blogspot.com/-mxFdsE5izrg/Uf4fsg8JttI/AAAAAAAAAOg/dk5LIe42ArE/s320/995773_10201357909606457_710007140_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Một câu chuyện về những người mù, nghe qua có thể hình dung nên những trang sách gượng và ướt. Nhưng Lê Tất Điều đưa người đọc vào thế giới của bóng đêm một cách thật tự nhiên, dịu dàng. Đúng như lời giới thiệu của Võ Phiến: "Trẻ con và người lớn, kẻ tàn tật và người lành mạnh, đa số nhân vật của Điều yêu đời, lạc quan, và luôn tin cậy ở cuộc sống..." Thật lạ khi một người sáng mắt như Lê Tất Điều lại hiểu tình cảm của những người mù như thế. Quan trọng hơn, để văn đồng điệu với tâm hồn họ, thì chính tâm hồn tác giả phải nhân ái, nhạy cảm như thế nào.<br />
<br />
Cốt truyện không có gì gay cấn, chủ yếu quanh quẩn trong khuôn viên ngôi trường khiếm thị. Mỗi số phận là một câu chuyện được kể thật đơn giản, nhưng vẫn đủ gây rung động. Từ chuyện một anh năm cuối phải rời trường và được cả đám tổ chức "đám tang", đến việc em bé mù giận dỗi phá đám mối tình giữa anh học sinh mù và cô gái sáng mắt.<br />
<br />
Là người di cư, giọng văn lại rất trau chuốt đúng kiểu Bắc Hà, nhưng cái hồn văn của Lê Tất Điều lại hiền lành rất Nam Bộ. Tiếc là cuốn sách này quá ngắn, nếu ông viết dày hơn nữa có thể nó đã có tiếng hơn. Những món ăn tinh thần rất đơn giản, mà ngon bổ như thế này, là thứ mà xã hội hỗn loạn hiện nay đang cần hơn bao giờ hết. Nó có thể làm lòng người chùng xuống, mà không ủy mị, để tự nhìn lại mình.<br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-45263687438570745232013-08-02T05:49:00.002-07:002013-08-02T05:50:54.231-07:00Disgrace - J.M.Coetzee<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-KJ9JaARntpg/UfupzE35z4I/AAAAAAAAAOQ/ry87lkMW9gg/s1600/Disgrace.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="255" src="http://1.bp.blogspot.com/-KJ9JaARntpg/UfupzE35z4I/AAAAAAAAAOQ/ry87lkMW9gg/s400/Disgrace.jpg" width="400" /></a></div>
<br />
<br />
David Lurie, giáo sư giảng dạy thi ca bậc đại học tại Nam Phi, bất ngờ vướng vào mối quan hệ tình ái với một nữ sinh viên. Từ đó, người đàn ông trung niên này bất đắc dĩ trải qua nhiều sự kiện làm thay đổi cuộc đời ông. Hơn 200 trang sách là những hành trình không khoan nhượng làm chấn động đến cốt lõi con người của David Lurie. Là một trí thức thuần khiết, yêu thơ Wordsworth, ấp ủ một công trình về Byron, nhưng David còn là một người đàn ông với bản năng giống đực như những người bình thường khác. Chính ở đó, nỗi ô nhục, sự ghê tởm bộc lộ. Nhưng đó là những gì xã hội nghĩ về ông, bằng quán tính của đám đông. Đối với David, không có gì là sai khi con người chạy theo ham muốn. Ông thi vị hóa nỗi thèm khát cũng như tình cảm chân thành của mình đối với phụ nữ.<br />
<br />
Càng về sau, càng thấy nhiều mâu thuẫn trong con người David, nhiều sự phi lý trong những nhân vật và sự kiện diễn ra quanh ông. Đâu đó trong cuốn sách, thân phận của văn sỹ, một kẻ ngoại cuộc, được khắc khoải kể qua mối quan hệ của David với cuộc sống xung quanh. Đối với ông, cách sống và suy nghĩ của con gái Lucy quá khác biệt đến nỗi không thể nào hiểu được bằng lý trí thông thường. Ở khía cạnh nào đó, David chợt thấy con người và thân phận của Lucy trông như một con chó. Những nhân vật khác cũng quá nhiều vô lý. Tuy nhiên, trong thực tế, chính David Lurie mới là kẻ lạ lẫm trong thế giới đó. Giữa cảnh rối bời trăm mối, chỉ có Byron và những nhân vật thi ca phù du làm cho ông cảm thấy là chính mình. Thật mỉa mai, có lẽ chỉ có con chó nằm chờ "được" chết trong bệnh viện thú y là đồng điệu được với tâm hồn lạc loài của ông. <br />
<br />
Nói chung, cuốn sách này được xem là có "nhiều tầng nghĩa". Nhiều khi, có cảm giác nó muốn đụng đến quá nhiều vấn đề cùng một lúc. Tuy nhiên, đối với tôi ấn tượng của nó không rõ ràng, giọng kể tôi cũng không thích lắm. Chỉ có chương gần cuối giành riêng cho suy tưởng bay bướm về Byron và Teresa là có thể thấy rõ cái tài của Coetzee.<br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-30104484601023827082013-07-22T07:28:00.001-07:002013-07-22T07:28:01.754-07:00The Great Gatsby - F. Scott Fitzgerald<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-6mt77s3vsog/Ue0_evi31eI/AAAAAAAAAN4/69NhOFGM4sU/s1600/998727_10201269681840818_2081256159_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="240" src="http://2.bp.blogspot.com/-6mt77s3vsog/Ue0_evi31eI/AAAAAAAAAN4/69NhOFGM4sU/s320/998727_10201269681840818_2081256159_n.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
<br />
Tại sao lại là Gatsby vĩ đại? Đó hẳn là câu hỏi của nhiều người khi đọc xong. Thật khó để có câu trả lời cụ thể với một nhận thức lộn xộn những hình ảnh đầy tính tượng trưng. Trước hết, điều phải nói đến đầu tiên là cái không khí rất nhã, rất sang với một nhịp thở đậm chất quý ông của giọng văn Fitzgerald. Chất quý ông của giọng kể quá lịch lãm, quá mong manh. Nó không phải đến từ sự mềm yếu mà từ tính thiện, cái chính trực của một đấng nam nhi thuần quý tộc. Cho dù giọng kể thông qua suy nghĩ của Nick, hay lời nói và hành động của Jay Gatsby, Daisy, Jordan hoặc ngay cả Tom thì người đọc vẫn không thấy khó chịu. Fitzgerald là một quý ông kể chuyện.<br />
<br />
Quay trở lại tại sao Gatsby vĩ đại? Có lẽ vì những bữa tiệc náo nhiệt ở khu West Egg giàu có, sự tôn trọng vì tò mò, những lời võ đoán từ đám đông, những bộ suit lắm màu, áo sơ mi, xe hơi, hay tài sản kếch xù không rõ nguồn gốc. Nhưng giấc mơ mãnh liệt của Gatsby có lẽ là lý do tạo nên sự vĩ đại, hay sự hấp dẫn. Giấc mơ ấy chính là Daisy, nhưng không hẳn chỉ là Daisy. Gatsby có thực sự yêu Daisy hay chỉ vì Daisy là một giải thưởng mà Gatsby phải nỗ lực để chứng minh mình xứng đáng nhận nó? Daisy là mơ ước của nhiều người, và Gatsby là một trong số đó. Daisy là cái mốc quá cao trong quá khứ, là cuộc sống vật chất, là tiền tài danh vọng, mà Gatsby trong thâm tâm biết rõ cái mặt trái của nó, nhưng vẫn bám theo: "Her voice is full of money" - một nhận xét quá độc đáo, và cay đắng. Như vậy Gatsby còn vĩ đại nữa hay không? Hay cái vĩ đại ấy giờ đây thật nực cười. Dù sao đi nữa, Daisy vẫn là ánh thanh quang giữa đêm tịch, từ một bến bờ xa xăm, mà con người phải dõi mắt từ xa thèm khát. Daisy chính là giấc mơ Mỹ. Cái giấc mơ vật chất phù phiếm.<br />
<br />
VLViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-80179740824502569342013-02-01T09:48:00.001-08:002013-02-01T09:49:35.428-08:00Chết ở Venice - Thomas Mann<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-XYCQBZQlcJU/UQvrtlrEh5I/AAAAAAAAANA/pJhfQGhoSJw/s1600/16804_4865480231603_1193170219_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://4.bp.blogspot.com/-XYCQBZQlcJU/UQvrtlrEh5I/AAAAAAAAANA/pJhfQGhoSJw/s320/16804_4865480231603_1193170219_n.jpg" width="240" /></a></div>
<br />
<br />
Thomas Mann, đương nhiên là một cái tên khá mời gọi. Nhưng tủ sách Cánh Cửa Mở Rộng sao không chọn cuốn <i>Magic Moutain/Ngọn Núi Phù Thủy</i>, cuốn sách nổi tiếng nhất của Thomas Mann? Không rõ đã có người dịch và in chưa..<br />
<br />
Đây là một cuốn sách đọc được. Có lẽ đề tài đồng tính nam vào những năm trước Thế chiến thứ Nhất còn là một vấn đề nhạy cảm, nên <i>Chết ở Venice</i> đã trở thành một hiện tượng vào lúc đó. Thật ra, mình thích nhất chương 1 và 2, nơi Thomas Mann lan man về những suy tư văn chương, triết lý, có lẽ được mang thẳng từ ngoài đời vào tác phẩm. Đoạn giữa và câu chuyện không có gì đặc biệt. Nhân vật chính, nhà văn Aschenbach đi du lịch đến Venice và bị tiếng sét ái tình từ một cậu bé thiếu niên đẹp mê hồn đánh gục. Từ đây bắt đầu những ám ảnh, những cuộc đeo đuổi và tự dằn vặt của người đàn ông khả kính ấy. Đoạn gần cuối, từ khi nhân vật khám phá ra sự thật về dịch bệnh ở Venice được tả thật hay. Cơn ác mộng của ông diễn ra trong khi những giác quan khác vẫn còn thức tỉnh, làn ranh giữa ý thức và vô thức mập mờ với những hình ảnh nhảy múa náo loạn của dục vọng. Một cảm giác kinh tởm. Ông không biết mình phải làm gì tiếp theo. Người đọc cảm giác được sự sống của ông đang chao đảo trên một ranh giới. Một bên là bản năng, là tình yêu mãnh liệt, còn một bên là ý thức về dịch bệnh, là sự sống. Nhưng cũng thật khó nói chính xác ông đang nghĩ gì lúc ấy. Chỉ biết đó là lúc tâm hồn người nghệ sĩ đạt được tột cùng của cảm xúc, khi tình yêu và sự sống cùng lúc bị dồn ép đến cuối đường, vào ngõ cụt, đến bên bờ vực thẳm. Có thể ta mù mờ không rõ ông bị nhiễm bệnh khi nào, nhưng điều đó có quan trọng không khi cái chết của nhân vật ở cuối truyện là một sự dấn thân đẹp đẽ, là tác phẩm hay nhất mà người nghệ sĩ ấy để lại cho đời.<br />
<br />
Có thể nói người dịch của cuốn này Nguyễn Hồng Vân đã Việt hóa rất tốt. Hầu như mình khó nhận ra dấu vết của việc dịch: giọng văn trau chuốt, suôn sẻ, đọc không vấp váp chỗ nào. Đây đáng lẽ là một điều tốt. Nhưng có lẽ vì quá suôn, quá mượt, câu lại dài nên câu chữ của Thomas Mann cứ trôi tuồn tuột đi một cách không hối tiếc.<br />
<br />
<br />
Việt Lê<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-70014690104843819992013-01-31T01:07:00.001-08:002013-01-31T01:26:04.190-08:00Grand Theft Auto IV: Giấc mơ Mỹ và hai lựa chọnMục đích của blog này của mình là viết xuống về những sách, trò chơi điện tử đã đọc và hoàn tất như một sự tự ghi nhận hay là "tự sướng". Nhưng riêng về game thì càng ngày mình càng thấy ngôn từ bất lực. Hiện nay game review đều bằng video clip, "a picture is worth a thousand words". Thật khó để viết về một số game khi cái đặc biệt của nó nhiều khi chỉ là phần đồ họa hay âm nhạc, còn cách chơi thì lặp lại. Vì vậy nên cho dù trong mấy năm qua mình chơi rất nhiều game và phá băng được một vài, cũng không muốn viết xuống. Nhưng Grand Theft Auto (GTA) IV là một game đặc biệt và nó đã là cảm hứng cho rất nhiều nhà phê bình viết bài, khi ra đời vài năm về trước. Trong số những review tôi tìm được trên mạng, thật thú vị khi có cả bài của Junot Diaz, tác giả cuốn The Brief Wondrous Life of Oscar Wao, đoạt giải Pulitzer năm 2008. Nói chung, GTA IV là game không mới, đã được phá băng từ năm 2011, nhưng giờ đây khi GTA V đang ngấp nghé ra đời thì bài này mới được cố gắng viết xuống. Các bạn ngoại đạo nếu có hứng thú đọc đến đây và muốn đọc tiếp về cái "Giấc mơ Mỹ và hai lựa chọn" thì nên bỏ 2 đoạn tiếp theo.<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-6c-lnhUGf9w/UQoyug-7GhI/AAAAAAAAAMw/cBPb9NGgRMo/s1600/image.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="http://2.bp.blogspot.com/-6c-lnhUGf9w/UQoyug-7GhI/AAAAAAAAAMw/cBPb9NGgRMo/s320/image.jpg" width="258" /></a></div>
<br />
<br />
Có lẽ không gamer nào, cả máy tính PC và máy điện tử Console, là không quen thuộc với loạt game Grand Theft Auto của Rockstar. Từ phiên bản thứ 3 của mình, GTA đánh dấu một bước ngoặt to lớn bằng việc chuyển sang thể loại sandbox. Sandbox là thế giới mở, người chơi có thể tự do hành động và di chuyển trong một thế giới mở rộng lớn thay vì chỉ giới hạn hoạt động trong một phạm vi nhất định, tùy theo phân cảnh game. Tên tuổi GTA lên như diều từ đó.<br />
<br />
Cũng như phiên bản trước, GTA IV dùng bạo lực làm phông chủ đạo của game. Nhân vật có thể cướp xe của người đi đường (tính năng đặc biệt làm nên tên tuổi Grand Theft Auto), đánh người, bắn giết dân thường và cảnh sát trong lúc làm nhiệm vụ. Nhiệm vụ trong game là những mission nối tiếp mission dựa trên một kịch bản đặc sắc. Kịch bản này đưa người chơi lần lượt làm quen với một mạng lưới các nhân vật với những tính cách đặc trưng của giới giang hồ, từ đó leo từng nấc thang của thế giới ngầm và tiến về cái kết của câu chuyện. Bạo lực, những chiếc xe bóng lộn, thế giới ngầm, đồ họa sáng sủa, mượt mà, những màn rượt đuổi đường phố không khoan nhượng trên nền soundtrack phong phú với quy mô chưa từng thấy ở bất cứ game nào khác đã góp phần tạo nên một không khí rất GTA độc nhất vô nhị. Chỉ với những điều đó, GTA IV đã đủ để trở thành game hay nhất trong 5 năm trở lại đây.<br />
<br />
Nhưng GTA IV còn có một cốt chuyện hấp dẫn, sâu sắc mà nhiều người điểm game đã vội miệng so sánh với cả phim Bố Già và show truyền hình Sopranos nổi tiếng. Bối cảnh game là Liberty City, thành phố lấy gần như nguyên mẫu từ New York. Niko Bellic, người dẫn chuyện, nhân vật chính của game, rời tàu chở hàng vừa cập bến cảng Liberty City với niềm tin ngây thơ của bất cứ người di dân nào vừa đến Mỹ: đây là mảnh đất của cơ hội, xứ sở của tự do với những biệt thự mansion, du thuyền, siêu xe, làm tình tay ba, v..v.. Tuy nhiên, Niko đã sớm chưng hửng khi nhận ra người đã "quảng bá" cho cái giấc mơ Mỹ ấy, anh họ của Niko là Roman, thực ra đang sống trong một khu ổ chuột với công việc cà quèn, nợ nần ngập đầu.<br />
<br />
Khác với nhân vật chính của GTA trước, Niko trong game không phải là người sùng bái bạo lực, tuy hắn có quá khứ của một sát thủ, cựu quân nhân chiến trường Nam Tư, từng làm việc trong các tổ chức buôn người ở Địa Trung Hải. Niko đã từ bỏ cuộc sống tội lỗi để đến Mỹ với hy vọng làm lại cuộc đời. Tuy vậy, sau khi ra tay giúp đỡ Roman thoát khỏi chủ nợ, Niko nhanh chóng bị cuốn vào ân oán của thế giới ngầm Liberty City. Với những kỹ năng được đào luyện qua năm tháng giang hồ ở Đông Âu, Niko không khó để dần trở thành một tay gangster có số má trong môi trường mới. Tiền bạc, xe cộ, căn hộ cũng theo đó cập bến. Niko Bellic, một di dân ngày nào với hai bàn tay trắng, muốn rũ bỏ quá khứ và giết chóc để hoàn lương, sống một cuộc sống đơn giản, lương thiện bên cô bạn gái mới quen trên đất Mỹ, đã càng ngày càng lún sâu, vô tình hai bàn tay vấy máu một lần nữa. Trong lúc dấn thân vào các ân oán, đụng độ hết nhân vật này đến băng đảng khác, từ đủ các sắc dân khác nhau, Niko tình cờ gặp lại người bạn thuở thiếu thời trong nhóm đặc nhiệm ở Serbia là Bernie. Bernie nay đã ổn định ở miền đất hứa, với nhiều thay đổi trong cuộc sống lẫn trên cơ thể, và rất hạnh phúc. Có thể nói, Bernie là giấc mơ Mỹ đã trở thành sự thật. Tiếp theo, Niko biết được Bernie không phải là kẻ thù hắn cần tìm, mà kẻ phản bội đã ám ảnh hắn bấy lâu nay đang có mặt ở Liberty City. Ngày trả thù sắp đến, kết thúc đã gần kề. Lúc này, Niko bỗng thấy mình đứng giữa hai lựa chọn, hai ngã rẽ cuộc đời, giữa Cũ và Mới.<br />
<br />
Cái Cũ là giết chóc, là danh dự, là tinh thần anh chị giang hồ, là có thù thì phải trả. Cái Mới là luật lệ, là trò chơi Tư Bản, là tiền và lợi ích. Cái Cũ là cảm tính, là lún sâu còn cái Mới là lý trí, là vượt thoát. Cuối cùng, nếu Niko chọn trả thù, tức là chọn cái Cũ, éo le thay, người bạn đời tương lai là cô gái Kate McReary sẽ bị bắn chết ở đám cưới của Roman. Nếu Niko chọn cái Mới thay vì trả thù, với số tiền lớn để gia nhập cuộc sống Tư Bản, thì anh họ Roman của hắn sẽ là người bỏ mạng. Đây là những alternate ending đau đớn, khi chính Kate là tương lai, là cuộc sống mới của Niko nếu hắn chọn cái Cũ còn Roman là mắt xích duy nhất giữa Niko với quá khứ, quê nhà nếu hắn chọn cái Mới. Cũng không tình cờ khi người viết kịch bản sắp xếp cho Kate là người đẩy Niko đến lựa chọn trả thù, còn Roman lại chính là kẻ khuyên Niko từ bỏ thế giới cũ và tha thứ. Cả hai lời khuyên này đều dẫn đến cái chết của chính họ. GTA IV đặt Niko Bellic vào một lựa chọn không khoan nhượng giữa quá khứ và tương lai, không hề có cách giải quyết trung dung.<br />
<br />
Cuối game, đứng bên xác kẻ thù cuối cùng, Niko nghe văng vẳng câu nói của ai đó "You've won". Đúng là như thế khi thử thách tiếp nối thử thách đã kết thúc, câu chuyện cũng chấm dứt ở đây, nhưng đối với Niko có lẽ câu nói ấy chưa bao giờ nghe trống rỗng hơn lúc này. Khi danh sách credit (như bất cứ lúc nào bạn phá băng) đã lên hết, bạn sẽ nghe Niko nói "So this is what the dream is like. This is the victory we longed for." Đối với Niko, giấc mơ Mỹ trở thành sự thật nhưng đi kèm với cái giá quá đắt.<br />
<br />
<br />
P.S.: Khi nói về game, có lẽ không văn vẻ nào có thể mô tả hết cái hay của một loại hình giải trí chủ yếu bằng hình ảnh và âm thanh như thế. Nên tốt nhất là nên đi kèm với một clip tiêu biểu để giới thiệu thế giới của GTA IV với những người chưa chơi hoặc ngoại đạo:<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<object class="BLOGGER-youtube-video" classid="clsid:D27CDB6E-AE6D-11cf-96B8-444553540000" codebase="http://download.macromedia.com/pub/shockwave/cabs/flash/swflash.cab#version=6,0,40,0" data-thumbnail-src="http://3.gvt0.com/vi/svETP_DDgUc/0.jpg" height="266" width="320"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/svETP_DDgUc&fs=1&source=uds" /><param name="bgcolor" value="#FFFFFF" /><param name="allowFullScreen" value="true" /><embed width="320" height="266" src="http://www.youtube.com/v/svETP_DDgUc&fs=1&source=uds" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true"></embed></object></div>
<br />
Ngoài ra, chơi GTA IV, không thể nào bỏ qua phần sitcom, thường được chiếu trên TV trong game, hoặc phát trên các làn sóng radio khi lái xe. Những hài kịch này có sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ hài có tiếng của Mỹ, từ nhiều show nổi tiếng như Saturday Night Live. Không có gì ngoa khi có người nói muốn hiểu nhanh nhất về nước Mỹ thì nên xem TV Mỹ. Clip sau trích từ một show trong game có thể là tiêu biểu cho một thứ hài kịch vô thưởng vô phạt kiểu Mỹ, thông thường người ta có thể xem được trên kênh Adult Swim vào đêm khuya.<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<iframe allowfullscreen='allowfullscreen' webkitallowfullscreen='webkitallowfullscreen' mozallowfullscreen='mozallowfullscreen' width='320' height='266' src='https://www.youtube.com/embed/dnmhXl-3jP8?feature=player_embedded' frameborder='0'></iframe></div>
<br />
<br />
Việt LêViethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-8614578568187191502012-12-14T08:38:00.000-08:002012-12-15T18:55:11.878-08:00Anna Karenina - Lionel Trilling (tiểu luận phê bình)<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-CQ8tois9sUs/UMtPCp26O1I/AAAAAAAAAMA/kMKzmTRQ5L8/s1600/397222_4448026475520_1003663280_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="300" src="http://4.bp.blogspot.com/-CQ8tois9sUs/UMtPCp26O1I/AAAAAAAAAMA/kMKzmTRQ5L8/s400/397222_4448026475520_1003663280_n.jpg" width="400" /></a></div>
<br />
Một tiểu luận của Lionel Trilling, cây bút phê bình văn học xã hội nổi tiếng của Mỹ những năm hậu chiến. Chọn đại bài ngắn nhất dịch thử. Trình độ còn non mong bà con nào vô tình đọc được cũng đừng ném đá cục nha.<br />
<br />
<br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<b><span style="font-size: large;">Anna
Karenina</span></b><span style="font-size: 11pt;"> </span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">~ </span>Lionel Trilling<span style="font-size: 11pt;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Khi
<i>Anna Karenina</i> lần đầu ra mắt, cuốn
sách được đọc với sự hứng khởi đặc biệt trong đó thành tố chính là một nỗi niềm
hân hoan trẻ thơ khi nhận thấy trong nghệ thuật những điều tương tự trong đời
thực. Điểm này, người ta nói, là cái cách mọi việc như thế, cái cách chúng thật
sự là như thế, cái cách ta trước nay vẫn biết chúng như thế, và chưa có ngòi
bút nào trình bày như thế trước đây. Cảm giác chung về cuốn sách được Matthew
Arnold diễn tả trong tiểu luận về Tolstoi rằng <i>Anna Karenina</i> không chỉ nên được xem như một tác phẩm nghệ thuật mà
đúng ra là một phần của cuộc sống. Trong chừng mực nào đó, tất nhiên, nhận xét
của Arnold hoàn toàn không xác đáng – nghệ thuật là nghệ thuật và cuộc sống là
cuộc sống; chúng ta đọc tiểu thuyết và sống cuộc sống; và nếu ta cố diễn tả
nguồn cơn phản ứng của chúng ta về những tiểu thuyết nhất định bằng cách nói
rằng ta “sống” chúng, thì đó chỉ là một thái độ phát biểu. Nhưng đó là một thái
độ phát biểu cần thiết để giới thiệu tính cách của nghệ thuật Tolstoi.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-H3ZsRvqjMhQ/UMtUSyMVTsI/AAAAAAAAAMU/_xTNMKETvdE/s1600/60888_4768339203138_582852458_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="http://4.bp.blogspot.com/-H3ZsRvqjMhQ/UMtUSyMVTsI/AAAAAAAAAMU/_xTNMKETvdE/s400/60888_4768339203138_582852458_n.jpg" width="300" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Phản
ứng đầu tiên về <i>Anna Karenina</i>, như
tôi đã bàn, chứa đựng một sự ngây thơ nhất định. Như thể rằng từ đó về trước
người ta chỉ được biết đến một nghệ thuật chỉn chu và được thừa nhận, rồi giờ đây được đối diện một văn bản thực sự nguyên
thủy, cứ như họ chưa bao giờ có cơ hội cảm nhận một trạng thái sự thật
(verisimilitude). Nhưng đương nhiên nó không phải toàn bộ như thế. Tolstoi
không sáng tạo ra một thể loại mới gì cả. Khi <i>Anna Karenina</i> xuất bản – theo tập từ 1875 đến 1877 và toàn tập năm
1878 – cuốn tiểu thuyết như là một bản thể nghệ thuật đã vươn đến một đỉnh cao
trong quá trình phát triển của nó và đã tung ra nhiều cuộc xâm chiếm lớn lao
lên phần của cuộc sống mà cuốn sách đã nói đến một cách trác tuyệt, phần của
cuộc sống chúng ta gọi là hiện thực (actual). Chỉ bàn đến những tiểu thuyết gia
Pháp, đất nước mà lý thuyết hiện thực đã được xây dựng một cách ý thức hơn bất
cứ nơi nào khác, Balzac đã hoàn tất nhóm tác phẩm vĩ đại về lịch sử xã
hội Pháp gần ba thập kỷ trước, Flaubert đã xuất bản cả <i>Madame Bovary</i> và <i>L’Éducation
sentimentale</i>, và Zola đang ở thời sung sức nhất của hoạt động sáng tác. Với
tất cả những tác gia hiện thực trên đã chiếm hữu sân khấu – đó là chưa nói đến
tác phẩm của chính ông <i>Chiến Tranh và Hòa
Bình</i>, mà mặc dù trong thế kỷ 19 chưa có được danh tiếng như hiện nay, vẫn
được khá coi trọng vào lúc đó – Tolstoi vẫn tạo ra được cái hiệu ứng với <i>Anna Karenina</i> như tôi đã mô tả.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Và
ông đang tiếp tục điều đó hôm nay. Trong thời của chúng tôi Proust và Joyce đã
mở rộng sự thống trị của tiểu thuyết hiện thực; nền văn hóa tổng thể của chúng
ta bị ám ảnh phải luôn gắn liền với thực tế; chúng ta đã tháo gỡ hầu như mọi
cấm kỵ có lúc đã ngăn cản việc nắm bắt bản chất mọi sự trong thực tế và đã làm
tiến hóa những khoa học về hành vi con người rất chắc ăn và chi tiết mà điều
này có thể làm vui lòng Balzac hay Zola. Tuy nhiên, khi đọc <i>Anna Karenina</i>, chúng ta thốt lên bằng sự
hân hoan ngây thơ và ngạc nhiên, tại sao <i>nó</i>
lại là cái cách nó phải thế, chính nó là cuộc sống rồi! Và một nhà phê bình
đương đại, Philip Rahv, nói với chúng ta hôm nay những gì <st1:place w:st="on"><st1:city w:st="on">Arnold</st1:city></st1:place> đã nói với độc giả thế kỷ 19 của quyển
sách. Về Tolstoi, ông Rahv nói, “sự tách biệt giữa nghệ thuật và cuộc sống có
bản chất tối thiểu. Trong một tiểu thuyết Tolstoi nó không bao giờ là sự chia
rẽ mà luôn là sự thống nhất giữa nghệ thuật và cuộc sống, điều này đã tạo ra sự
khai minh… Người ta có thể nói trong cái lý nào đó không có cốt
truyện trong Tolstoi nhưng đơn giản chỉ có một tiến trình không thay đổi được
và không thắc mắc được của chính cuộc sống; tiến trình đó là sự trực tiếp đáng kinh ngạc mà với nó ông sở hữu những nhân vật ông có thể điều
động với kỹ thuật đầy lôi cuốn, như khi ông điều động với những công cụ đỏm
dáng:
phóng đại, xuyên tạc và giả tạo.”<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Tính
sát sườn với cuộc sống, mà, trong số những nhà văn, ông sở hữu ở mức độ cao
nhất, không làm Tolstoi trở thành nhà văn vĩ đại nhất. Cho dù vĩ đại, vẫn có
những hiệu ứng phải đạt được bởi kỹ thuật lôi cuốn đầy tỉnh táo và khả năng làm
biến dạng, bởi cốt truyện và thiết kế, bởi tình yêu lãng mạn, mà phương pháp
tính cách của ông không thể kiểm soát được; có những
thể loại khai minh và niềm vui sướng mà Tolstoi không thể đem đến cho chúng ta
nhưng Dickens, Dostoevski, và James có thể. Nhưng nếu Tolstoi không phải người
vĩ đại nhất trong những nhà văn – dạng so sánh cao nhất của tính từ ấy, trong
bất cứ trường hợp nào, ngăn cản một cách ngu xuẩn phản hồi tự do của chúng ta
về văn chương – ông có thể được xem là người <i>trung tâm</i> nhất. Chính ông đã đem đến cho tiểu thuyết tiêu
chuẩn và khuôn thước, tiêu chuẩn và khuôn thước không phải của nghệ thuật mà
của thực tế. Tác phẩm của ông được dùng làm chuẩn để ta đo độ xuyên tạc, phóng
đại, và nói giảm mà những nhà văn khác dùng – dĩ nhiên là dùng một cách hợp lệ
- để đạt được những hiệu ứng của họ. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Với
độc giả của ông, chỉ một tác giả khác có vẻ sở hữu tính chất khuôn thước này –
những gì chúng ta hôm nay cảm nhận được về Tolstoi đã được cảm nhận trong thế
kỷ thứ mười tám một cách lạc quan hơn và công thức hơn về Homer. Đó chính là
cảm nhận của Đức Giáo Hoàng khi ông nói rằng Tự Nhiên và Homer chính là một.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Một
trong những cách ghi nhận tính chất khuôn thước, tiêu chuẩn của Homer là nói về
tính khách quan của ông. Homer mang đến cho ta đối tượng, mà không nhét tính
cách của ông vào giữa đối tượng đó và chúng ta. Ông đem lại một người hay một
sự vật hoặc một sự kiện mà không phán xét nó, như Tự Nhiên chính nó đem đến cho
ta. Và trong chừng mực nào đó, điều này đúng với Homer, thì nó cũng vậy với
Tolstoi. Nhưng một lần nữa chúng ta đang xử lý một thái độ phát biểu. Homer và
Tự Nhiên đương nhiên không là một, cũng như Tolstoi và Tự Nhiên không như nhau.
Thật vậy, cái được gọi là tính khách quan của Homer hoặc của Tolstoi không phải
là tính khách quan gì cả. Hoàn toàn đối nghịch, đó là sự chủ quan hào phóng và
hoang tàn nhất có thể, vì mọi đối tượng trong <i>Trường ca Iliad</i> hoặc <i>Anna
Karenina</i> tồn tại qua một phương tiện mà ta phải gọi là tình yêu
của tác giả. Nhưng tình yêu này quá lan tỏa, quá bất biến, và quá công bằng, nó
tạo ra một ảo giác của sự khách quan, bởi vì mọi sự trong câu chuyện, không có
ngoại lệ, tồn tại trong đó như mọi sự trong Tự Nhiên, không có ngoại lệ, tồn
tại trong thời gian, không gian, và không khí.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Để
nhận thức đặc tính khách quan của Tolstoi, người ta chỉ phải so sánh với tính
khách quan của Flaubert. Hiểu trên phê bình lý luận, Flaubert được ghi nhận
khách quan gần như là Tolstoi. Tuy nhiên rõ ràng là tính khách quan của
Flaubert chứa sự khó chịu và Tolstoi thì chứa tình thương (affection). Với
Tolstoi, mọi người và mọi vật đều sở hữu một ưu điểm cứu vãn (saving grace). Cũng
như Homer, ông hiếm khi cho phép ta lựa chọn giữa hai đối nghịch – như việc chúng
ta không dám đặt lòng thông cảm cho Hector hoặc cho Achilles, cũng như trong
trường đoạn vĩ đại ấy, không dám ủng hộ ai giữa Achilles hoặc Priam, nên ta
không thể nói, giữa Anna và Alexei Karenin, hoặc giữa Anna và Vronsky, ai đúng
và ai sai.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Hơn
bất cứ gì khác, và đương nhiên đi trước những kỹ năng văn chương cụ thể mà
chúng ta cô lập, chính là cái phẩm chất luân lý này, phẩm chất tình thương, đã
giải thích cho ảo tưởng về thực tế rất độc đáo mà Tolstoi tạo ra. Chính khi
người viết thật sự yêu nhân vật của ông, ta mới có thể thấy những nhân vật ấy
được diễn tả trong sự toàn vẹn và mâu thuẫn, trong thất bại cũng như trong
những thời khắc huy hoàng, trong sự tầm thường cũng như trong vẻ quyến rũ của
họ. Hãy xem tiểu thuyết gia nào khác Tolstoi, có bao giờ không làm giảm đi tình
yêu gần như đầy nhục dục đối với nữ anh hùng của ông ta, có thể làm ta tin vào
nữ anh hùng đó, như là ta tin vào Anna, đến nỗi cô ta trở thành một phụ nữ khó
khăn, hầu như bất khả? Hoặc tiểu thuyết gia nào khác có thể kể, như Tolstoi kể
ta nghe về Vronsky, rằng người hùng lãng mạn của ông ta đang càng ngày càng hói
nhưng cũng đồng thời không dùng chi tiết đó để hạ thấp anh ta? Cái mà chúng tôi
gọi là tính khách quan của Tolstoi chỉ đơn giản là sức mạnh của tình yêu để
không phải cam chịu sự giảm bớt từ một sự thật là cuộc sống thường không được
lý tưởng như mong ước. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Chính
là chiến thắng đầy khôn khéo của nghệ thuật Tolstoi đã khiến ta ủng hộ một cách
nhiệt thành cho cách tượng trưng mọi sự như chính chúng như thế của nghệ thuật
đó. Chúng ta rất vui vẻ đưa ra sự thừa nhận cho những gì Tolstoi tượng trưng và
rất sẵn lòng gọi đó là thực tế vì ta sẽ nhận vào từ việc gọi đó là thực tế. Bởi
vì đó là niềm hy vọng của từng con người đoan chính, trung thực để được phán
xét dưới phương diện cách trình bày bản chất con người của Tolstoi. Có lẽ, những
gì Tolstoi đã làm là tạo ra, như thực tế, sự phán quyết hay bản án mà mỗi con
người đoan chính, trung thực (một cách hợp lý) thường thường sẽ đưa ra cho bản
thân họ - như là một người không hoàn toàn tốt và không hoàn toàn xấu, không
anh hùng tuy nhiên cũng không thiếu anh hùng chủ nghĩa, không lộng lẫy nhưng
cũng không thiếu những thời khắc sáng sủa, không để bị hiểu bởi bất cứ công
thức nào tuy nhiên vẫn có nguyên tắc sống riêng, và thu xếp cách nào đó, bất
chấp những quan niệm lễ giáo, để luôn giữ được phẩm giá. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Đó
đương nhiên là một cách khác để nói hiện thực của Tolstoi hoàn toàn không khách
quan chút nào, rằng đó chính là sản phẩm của ý chí và ước ao của ông (và của
chúng ta). Khi chúng ta nói như vậy, chúng ta phải nói thêm – ta phải làm thế
để đạt được cái hiện thực cụ thể mà trong đó Tolstoi bỏ sót chi tiết những hiện
thực khác sở hữu. Đáng kể nhất, ông đã bỏ sót cái xấu (evil), chi tiết trung
tâm trong cái nhìn của tác gia vĩ đại cùng thời Dostoevski. Tolstoi, để chắc
chắn, không phải là không nhận thấy được những đau khổ của con người. Levin, là
tượng trưng cho bản thân Tolstoi trong <i>Anna
Karenina</i>, bị rơi vào một cuộc khủng hoảng tinh thần với ý nghĩ “đối với mọi
người, bản thân anh ta nữa, không có gì khác ngoài khổ đau, cái chết và lãng
quên,” rồi anh ta bị đẩy đến mức tin rằng anh “hoặc là phải diễn tả cuộc sống
bằng cách khiến cuộc sống không giống như một trò đùa xấu xa của quỷ sứ, hoặc
là tự bắn bỏ cho rồi.” Về hình thức, đây cũng chính là ý nghĩ luôn dằn vặt Ivan
Karamazov. Nhưng nó có khác biệt về giọng văn, và khác về cường độ. Cảm giác
tiêu cực của Levin, tuy đau đớn, nhưng mơ hồ và có thể man mác buồn; nó hoàn
toàn không có sự rùng rợn và ghê tởm như cảm giác nơi Ivan. Và Levin có thể
giải quyết khủng hoảng của mình một cách khá dễ dàng, vì anh ta sở hữu những
chất liệu ôn hòa trong tầm tay mà Ivan không có và có thể sẽ không chấp nhận – lòng
thành kính, công việc, truyền thống, và sự liền mạch trong gia đình. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Ngày
nay, cảm thức xấu xa dễ dàng tiếp cận chúng ta. Ta đều đồng ý với cái mà Henry
James gọi là “sức tưởng tượng tai họa” (imagination of disaster), và với đủ
tỉnh táo, với thực trạng của thế giới hôm nay. Cũng với đủ tỉnh táo mà chúng ta
rung cảm nhất với những tác giả, những người có tưởng tượng tai họa phát triển
cao, ngay cả phát triển cực cao. Với nhiều người chúng ta thế giới hôm nay có
vẻ ngoài và cảm giác của một cuốn tiểu thuyết Dostoevski, mỗi thời khắc của nó
là khủng hoảng, mỗi chi tiết của nó đều ném ra sự đa cảm trầm trọng và ý chí
thương tật, mù lòa. Có thể hiểu rằng, khi bùa phép của Tolstoi chưa phủ xuống
chúng ta ngay, ta có thể thấy như rằng ông đem đến cho ta không phải thực tế mà
chỉ là một phần của thực tế mà thôi. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Không
nghi ngờ rằng sức tưởng tượng tai họa không thực sự mạnh nơi Tolstoi.<a href="file:///C:/Users/Viet/Documents/Anna%20Karenina.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="color: black; font-size: 11pt;">[1]</span></span><!--[endif]--></span></a>
Nhưng có thể chính ở đây ẩn chứa giá trị khác thường của ông đối với chúng ta. Vì
sức tưởng tượng tai họa là một chức năng đầy can đảm và quả quyết của lý trí
nhưng nó đồng thời cũng độc đoán và hay ganh tị - nó không dễ dàng gì cho phép
những quan niệm khác đi bên cạnh; nó sẵn sàng sinh ra cái xấu hơn là sinh ra một
thứ mà cái xấu có thể xảy đến với thứ đó; hoặc, nếu nó sinh ra một sự vật có
thể bị tổn hại, nó thường có khuynh hướng làm thế bằng một cách trừu tượng. Thị
hiếu văn học của chúng ta đã trỗi dậy từ quan niệm này, là một thị hiếu tự
nhiên, tuy nhiên nó chứa cái nguy hiểm làm ta có thể đi đến giả định rằng cái
xấu xa lại tương đương với thực tế. Ta còn có thể, bằng một cách xa xôi và vô
thức nào đó, đi đến tôn vinh cho cái xấu như thể là thực tế. Hoặc có thể xảy ra
rằng sự lo sợ của chúng ta về cái xấu xa sẽ đưa ta đến chỗ đánh mất nhận biết
của ta, hoặc ít nhất cũng mất đi sự khẳng định văn học của nhận thức chúng ta,
về thế nào là cái tốt đẹp của cuộc sống. Sức sáng tạo văn học kể từ thời Tolstoi
rực rỡ phi thường và xác đáng tuyệt diệu, tuy nhiên có một sự thật phũ phàng
rằng, mặc dù nhiều cây bút đủ sức viết về đau khổ của cuộc sống, hầu như không
ai có thể kể về sự đau khổ dưới dạng niềm vui tiềm ẩn của cuộc sống, và mặc dù
nhiều người đã miêu tả được sự suy nhược và biến dạng của quan hệ con người,
hiếm ai có thể diễn tả được sự bình thường của quan hệ con người là thật như
thế nào. Nhưng trong Tolstoi, gia đình là một thực thể; quan hệ cha mẹ với con
là một tình trạng thật chứ không phải mang tính biểu tượng; tình thương thực sự
hiện hữu và có thể được nói đến nếu thích mà không hề xấu hổ; tình cảm lên rồi
xuống, nhẹ nhàng hoặc giận dỗi, nhưng nó luôn là cái gì đó cao hơn một phép ẩn
dụ; sự liền mạch sinh học là sự thật, không phải giống như sự quả quyết sơ sài
một cách cảm động của James Joyce, mà là một cách giản đơn và không thể trốn thoát.
Ta có thể nói, với sức tưởng tượng tai họa rất thấp đó, Tolstoi đã phục vụ
chúng ta, vì ông nhắc nhở ta về cuộc sống trong cái thực tế thông thường của nó
là như thế nào. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Tôi
đã nói rằng tầm nhìn luân lý của Tolstoi hầu như là tác nhân cho niềm vui sướng
của chúng ta khi phản ứng về <i>Anna
Karenina</i>. Đó là lý do tại sao phê bình, cụ thể là phê bình văn học, nên bó
tay chịu trói (lay down its arms) trước cuốn tiểu thuyết này. Chúng ta sống
trong một thời mà phê bình văn học đã và đang đưa ra nhiều tuyên bố quả quyết
mà chắc hẳn không hoàn toàn phi lý. Nhưng phê bình đặc trưng của thời đại chúng
ta là phân tích tâm lý học của ngôn ngữ. Đây là một kỹ thuật cực kỳ hữu dụng,
nhưng có những khoảnh khắc văn chương không hề muốn tiết lộ bí mật quyền lực
của chúng cho bất kỳ nghiên cứu về ngôn ngữ nào, bởi vì quyền lực văn học không
phụ thuộc vào ngôn ngữ mà là dựa vào quan niệm luân lý. Khi
ta đọc Hector trong phút giã từ Andromache đã bế con trai nhỏ lên nhưng đứa bé kinh
sợ trước cái bờm ngựa nơi mũ chiến của người cha, Hector tháo mũ ra và cười to
rồi đặt mũ xuống đất như thế nào, hoặc Priam lẻn đến tận lều của Achilles cầu
xin để mang xác con trai về, và rồi người đàn ông già và chàng trai trẻ, cả hai
đều đang chịu tang và đau buồn về mất mát của người thân, nói chuyện với nhau
về cái chết và số phận ra sao, không gì có thể giải thích được quyền lực của
những thời khắc đó lên chúng ta. Và ngay cả khi sóng cảm xúc ta dâng trào bởi
nhận thức của ta về một sự thích hợp đến hoàn hảo của từ ngữ được sử dụng – “Không
duyên cớ. Không duyên cớ” (No cause. No cause) của Cordelia (<i>King Lear</i>); hoặc
của Ophelia “Tôi là người bị lừa dối nhiều hơn”; hoặc của Hamlet “Còn lại đều
im lặng” - ta vẫn không thể xử lý ngôn
ngữ bằng cách phân tích, vì không phải ngôn ngữ có vẻ thuyết phục về tâm lý học
mà chỉ là đúng đắn một cách luân lý; ta cảm thấy chính xác bằng cách này mà con
người trong tình huống ấy nên nói, và chỉ toàn bộ cảm thức cuộc sống của chúng
ta mới có thể giải thích sự trân trọng của ta với việc từ ngữ được dùng là
những từ này thay vì những từ khác. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Tóm
lại, có những lúc mà người phê bình văn học không thể làm gì khác hơn là chỉ
ra, và <i>Anna Karenina</i> đem đến cho anh
ta một lúc như thế khi chức năng phê bình của anh ta bị thu hẹp lại và trở nên
cái hành động mang tính sơ khai đó: chỉ ra. Chỉ ra tại sao tiểu thuyết này hay?
Chỉ có ngón tay của sự ngưỡng mộ mới có thể trả lời: bởi vì khoảnh khắc này,
hoặc thời điểm kia, hầu hết là những khoảnh khắc lặng yên, tầm thường, mang
tính tình huống. Bởi vì một chi tiết quan sát nhân vật: “Hoàng tử Kuzovlev ngồi
đó mặt trắng bệch trên con ngựa thuần chủng từ giống ngựa nòi Grabovsky, trong
khi gã thân bộc người Anh dìu cương nó. Vronsky và những đồng chí đã biết về
Kuzovlev và tình trạng đặc biệt yếu thần kinh cũng như sự vô dụng đến tệ hại
của chàng ta. Họ biết chàng sợ hết thảy mọi việc, sợ khi cưỡi một con ngựa hung
hăng. Nhưng ngay lúc này, chỉ bởi vì nó thật khủng khiếp, vì người ta có thể
ngã gãy cổ, và có bác sĩ đứng ở mỗi chướng ngại vật, đàng kia một bệnh viện dã
chiến với chữ thập trên đó, và một bà sơ y tá, chàng ta đã quyết định tham dự
cuộc đua.” Hoặc bởi vì một mẩu quan sát xã hội: “Vassenka Veslovsky trước đó
hoàn toàn không có khái niệm gì về việc nó thật sự hợp mốt khi một vận động
viên mặc thời trang rách rưới thay vì trang phục săn bắn chất lượng tốt nhất.
Giờ đây anh đã thấy điều đó khi nhìn Stepan Arkadyevich, rạng rỡ trong trang
phục rách, duyên dáng, no đủ, và vui sướng, một quý tộc Nga điển hình. Và anh
quyết định lần tới tham dự cuộc săn bắn anh chắc chắn sẽ ăn vận y hệt.” Hoặc
bởi vì cuộc đua ngựa vượt chướng ngại khó quên của Vronsky và cú té khá bi kịch
của con ngựa Anh đẹp đẽ; hoặc cuộc trò chuyện của Dolly với người nữ nô lệ về
con cái và nghĩa vụ của việc làm phụ nữ; hoặc Levin gặt lúa với những người
nông dân trên cánh đồng, người nông dân già thách thức anh “Một khi đã nắm sợi
dây, không bỏ ra được đâu!” và tất cả nông dân chờ đợi người chủ của mình bỏ
cuộc trước áp lực nhưng cuối cùng hầu hết đều mừng vì anh ta không chịu thua;
hoặc phân đoạn, được lấy từ chính tình sử của Tolstoi và vợ ông, trong đó Levin
và Kitty trò chuyện bằng cách viết bằng phấn lên mặt bàn những ký tự viết tắt
của những từ ngữ; hoặc sự quyết tâm của Alexei Karenin để trở thành một nhà quý
tộc và chức sắc Thiên Chúa Giáo và sự bất lực của anh trong việc theo đuổi ý
định ấy; hoặc cuộc viếng thăm của Anna đến con trai của nàng trong buổi sáng
sinh nhật của nó; hoặc chi tiết tả sự chần chừ của Sergei, anh trai Levin,
trong lúc anh đã có thể cầu hôn Varenka, và cuối cùng cả hai đều nhận ra rằng
thời khắc đã qua đi mất.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: 11pt;">Một
phần pháp thuật của cuốn sách là việc nó xâm phạm quan niệm của ta về cái tỉ lệ
nên tồn tại giữa tầm quan trọng của một sự kiện và không gian được giành cho nó
trên trang giấy. Việc Vronsky đột ngột nhận ra sự thật rằng anh ta bị ràng buộc
với Anna không phải bởi tình yêu mà bởi sự kết thúc của tình yêu, một nhận thức
làm thay đổi tất cả mọi hiểu biết của ta về mối tình của hai người, được xử lý
chỉ trong vài dòng; trong khi đó nhiều trang được sử dụng để tả khám phá của
Levin về việc tất cả áo sơ mi của anh đã được xếp vào hành lý và anh không còn
áo để mặc cho đám cưới của mình. Chính là mức độ chú ý được giành cho những cái
áo đã làm Matthew Arnold kêu lên rằng cuốn sách này không nên được tiếp nhận
như nghệ thuật mà nên như là chính cuộc sống, và có thể hình ảnh này gợi ý năng
lượng của trí thông minh động vật (the energy of animal intelligence) đã đánh
dấu Tolstoi như một tiểu thuyết gia. Bởi vì ta thấy một cách tóm lược nhận thức
của ông rằng tinh thần con người thì luôn luôn nhận được sự độ lượng từ cái
hiện thực và tầm thường, cảm thức đam mê của ông rằng
cái hiện thực và tầm thường là quan trọng nhất, niềm tin chắc chắn của ông rằng
chúng không phải là thứ quan trọng cuối cùng. Nghe có vẻ như một loại kiến thức
khiêm tốn? Chúng ta đừng tự lừa dối mình – để hiểu tinh thần vô điều kiện thật
sự không quá khó, nhưng không có kiến thức nào hiếm hơn sự hiểu biết về tinh
thần bởi vì nó hiện hữu dưới những điều kiện không trốn thoát được mà cái hiện
thực và tầm thường gây dựng. <o:p></o:p></span></div>
<div>
<!--[if !supportFootnotes]--><br clear="all" />
<hr align="left" size="1" width="33%" />
<!--[endif]-->
<br />
<div id="ftn1">
<div class="MsoFootnoteText">
<a href="file:///C:/Users/Viet/Documents/Anna%20Karenina.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="color: black; font-family: VNI-Times; font-size: 10.0pt; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-font-family: "Times New Roman"; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: "Times New Roman"; mso-fareast-language: EN-US;">[1]</span></span><!--[endif]--></span></a>
<span style="font-size: x-small;">Mặc dù đủ mạnh để đem đến cho ta
nhân vật anh trai của Levin tên là Nicolai, người mà sự thất vọng về cuộc sống
thật là toàn diện và đâm rễ thật sâu giống như bất cứ nhân vật nào khác của
Dostoevski.<o:p></o:p></span></div>
</div>
</div>
<br />
<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com6tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-81568562495106165972012-12-10T09:03:00.001-08:002012-12-10T09:04:58.534-08:00Thượng Đế Thì Cười - Nguyễn Khải <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-gvlxIBNTxug/UMXzr06nm3I/AAAAAAAAALs/1HRpB4Q7gfQ/s1600/297772_4748505347304_260142835_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="240" src="http://2.bp.blogspot.com/-gvlxIBNTxug/UMXzr06nm3I/AAAAAAAAALs/1HRpB4Q7gfQ/s320/297772_4748505347304_260142835_n.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
Trước khi đọc cuốn này, tôi đã được biết lơ mơ đến ông Nguyễn Khải qua một bài viết của Vương Trí Nhàn. Đại loại có đoạn chỉ trích hơi gay gắt. Thế là thành kiến với ông Nguyễn Khải, có lẽ lại là một Tố Hữu, một Chế Lan Viên, một Hoài Thanh nữa chăng?<br />
<br />
Đọc bài viết ngắn về Nguyễn Khải của Nguyên Ngọc nằm ở những trang cuối sách trước tiên, người ta dễ có cảm giác ừ thì bạn bè thân viết về nhau hẳn phải nói tốt. Rất bình thường thôi. Nhưng quay lại những trang ấy khi đã đọc hết tác phẩm, tôi thấy rõ rằng ông Nguyên Ngọc viết rất xác đáng, rất trung thực về bạn mình: "...sự trung thực, cả điều gọi là dũng khí của nhà văn chủ yếu phải là ở trong sáng tác của anh, chứ không phải là, chỉ là trong ứng xử hằng ngày ở đời của anh."<br />
<br />
Cuốn sách là một tuyển tập, trong đó phần đầu gồm nhiều truyện ngắn, tạp văn và hơn 250 trang cuối là truyện dài <i>Thượng đế thì cười</i>. Đây thật ra giống một hồi ký, tự sự, nhìn lại cuộc đời hơn là một tiểu thuyết. Tác giả kể từ xa đến gần, tự xưng mình là "hắn". <br />
<br />
Thẳng thắn mà nói, những tạp văn đầu sách tuy đọc được nhưng không có gì đặc biệt; còn hồi ký <i>Thượng đế thì cười</i> sa đà vào những kể lể cá nhân quá mức, nhiều đoạn làm người đọc khó chịu. Khi đọc được 1/3 sách, chân dung Nguyễn Khải hiện lên như một con người đạo đức giả, luôn muốn tự nhận mình là người kém tài, kém tháo vát, thích dĩ hòa vi quý, không muốn làm quan và không muốn làm hại ai. Vậy mà chính ông đã cho biết rằng mình bị nhiều bạn văn căm giận, gọi là "tên đao phủ". Như thế đủ biết Nguyễn Khải đã có thời nịnh bợ, o ép đồng chí, đồng nghiệp của mình như thế nào. Về gia đình, Nguyễn Khải hơn một lần càm ràm về bà vợ đã thất tuần mà vẫn đòi hỏi sự quan tâm của chồng, cũng như luôn sợ chồng phản bội. Bà vợ tuy tháo vát nhưng gốc nhà quê, nhiều lần làm ông xấu hổ trước bạn bè. Những chi tiết nên để trong nhật ký cá nhân hơn là viết cho thiên hạ đọc. Rồi đến những đoạn kể về cha mẹ ruột, những người không rõ đối xử với ông tệ như thế nào mà cũng hơn một lần Nguyễn Khải đã nhắc đến họ một cách hằn học, và nhắc về thời niên thiếu của mình một cách đầy cay đắng. Giống như kiểu người thanh niên gương mẫu phải phủ định quá khứ tiểu tư sản của mình. Đọc đến đó, tôi nghĩ ai cũng có ý định xếp xó cuốn sách này cho rồi. Nhưng ý định đó của tôi không thực hiện được, vì cứ tối nào mệt, chỉ muốn đọc để ru ngủ thì tôi lại cầm cuốn ấy lên đọc tiếp.<br />
<br />
Nhìn lại, rõ ràng đọc hết cuốn sách này không phí thời gian chút nào. Khi bình tâm, tạm quên những thành kiến, tôi càng đọc càng thấy thông cảm với Nguyễn Khải. Những yêu ghét, gay gắt cá nhân đã làm tôi khó chịu, nếu đánh giá cho đúng cũng đều rất con người. Vấn đề là không ai muốn nói những chuyện không ai muốn biết ấy, đặc biệt trong một cuốn sách văn học, nhưng Nguyễn Khải vẫn chọn cách nói ra, nói hết, nói nguyên vẹn. Tình cảm lúc ấy của ông đối với sự việc như thế nào thì mấy mươi năm sao ông cũng kể lại y như vậy. Không phải vì ông muốn tỏ ra thành thật để xin xỏ lòng cảm thông của bạn đọc, như suy đoán ban đầu của tôi về một con người đạo đức giả, mà ở đây ông thành thật một cách rút ruột, rút gan, vắt kiệt tất cả để phơi bày hoàn toàn những cái xấu, những méo mó của bản thân. Như một nỗ lực làm con người trung thực lần cuối. Còn việc phán xét thế nào là tùy cảm nhận của bạn đọc.<br />
<br />
Không rõ những tác phẩm khác của Nguyễn Khải như thế nào, nhưng đọc một đoạn tả cảnh khi ông theo xe quân đội đi thực tế chiến trường, tôi thấy một Nguyễn Khải khác hẳn cái ông già nhì nhằng, kể lể của <i>Thượng đế thì cười</i>. Quả thật, ông là một nhà văn có nghề. Giọng văn kể chuyện rành rọt, tuôn chảy liên tục như dòng suối, không hề vấp váp, khiến người đọc như chiếc lá cứ phải trôi hoài theo dòng chảy về phía trước. Có lẽ cái tài của Nguyễn Khải là ở đó? Ngoài ra, cuốn sách này có lẽ thuộc loại không cần phải đọc, trừ khi bạn tò mò về cuộc đời Nguyễn Khải.<br />
<br />
Việt Lê<br />
<br />
<br />Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com5tag:blogger.com,1999:blog-5836003195763888612.post-22400988937510123982012-12-06T09:02:00.000-08:002012-12-06T09:04:44.196-08:00Lỗi trang đầu tiên trong vài cuốn sách của Tủ Sách Tinh Hoa<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-9sI2cniC2tk/UMDGKwlcW0I/AAAAAAAAAK8/Yx1kYuDTjFc/s1600/IMG_2202.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="214" src="http://3.bp.blogspot.com/-9sI2cniC2tk/UMDGKwlcW0I/AAAAAAAAAK8/Yx1kYuDTjFc/s320/IMG_2202.JPG" width="320" /></a></div>
<br />
Những cuốn sách trong Tủ Sách Tinh Hoa của Nxb Tri Thức đều thuộc dạng ai cũng muốn sở hữu trên tủ sách, với phương châm (có lẽ của không ít người) là mua về, để đó, từ từ đọc. Mình cũng không ngoại lệ.<br />
<br />
Chuyện gặp phải lỗi trong sách xuất bản tại Việt Nam có lẽ không lạ gì với bạn đọc. Tuy nhiên với tầm vóc uy tín của tủ sách này, không thể ngờ rằng 3 cuốn mình đọc gần đây nhất thì cả 3 cuốn đều có lỗi ở trang đầu tiên.<br />
<br />
Trước hết là tập tiểu luận của Roland Barthes:<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-pVNb94s2qyE/UMDKxX_seNI/AAAAAAAAALM/Rh1Gh74uUcI/s1600/16201_4728794614548_1327075542_ndfh.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="http://1.bp.blogspot.com/-pVNb94s2qyE/UMDKxX_seNI/AAAAAAAAALM/Rh1Gh74uUcI/s640/16201_4728794614548_1327075542_ndfh.jpg" width="480" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
Đây là trang đầu tiên có nội dung. Nhưng cước chú ở trang này đã lên đến số 3? </div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
Thứ hai là cuốn <i>Tâm lí học đám đông</i> của Gustave le Bon, trang đầu tiên đã có lỗi typo:</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-4Trad1BOHt8/UMDMCoO1DkI/AAAAAAAAALU/rwYRth77qrk/s1600/537641_4728795134561_283036749_nfdds.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="http://2.bp.blogspot.com/-4Trad1BOHt8/UMDMCoO1DkI/AAAAAAAAALU/rwYRth77qrk/s640/537641_4728795134561_283036749_nfdds.jpg" width="480" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
Cuối cùng là cuốn tiểu luận <i>Câu chuyện vô hình & Đảo</i> của Hamvas Béla, văn sĩ người Hungary:</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-fv_PSy2fFZI/UMDMlLHaWrI/AAAAAAAAALc/rgyq0lepYwI/s1600/429536_4728795414568_2086123303_nsgse.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="http://2.bp.blogspot.com/-fv_PSy2fFZI/UMDMlLHaWrI/AAAAAAAAALc/rgyq0lepYwI/s640/429536_4728795414568_2086123303_nsgse.jpg" width="640" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
"Ra nhập": sai trầm trọng, có lẽ dịch giả quen dùng tiếng địa phương. Thật khó hiểu vì nếu search trên google ta sẽ thấy nhiều người cũng dùng "ra nhập" thay vì "gia nhập".</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
Hết biết mấy vị biên tập viên Nxb Tri Thức. </div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<br /></div>
Viethttp://www.blogger.com/profile/02424121807556294994noreply@blogger.com11